Lật giở lại những mảnh ký ức vẫn còn đang hằn ghi trong trang sách, lòng tôi chợt nhớ tới câu hát “Người đã ra đi không thể trở lại
Vết thương ngày nào không thể liền da”.
Đã tròn 20 năm kể từ ngày nhà thơ Tố Hữu giã từ cõi tạm, nhưng với khách yêu thơ, Tố Hữu vẫn “sống” và vẫn mải mê đắm chìm trong những vần thơ thời đại mà ông viết cùng một lòng tự hào, tự tôn đến tột cùng. Men theo dòng chảy nơi ngòi bút người thi sĩ, đậm quyện những màu thơ trữ tình và chan chứa tình cảm dân tộc đằm sâu, gần gũi, ta như vô thức lạc đến miền núi rừng xa xôi trong “Việt Bắc”, nơi thi nhân đã đem đến cho người đọc bức chân dung của thời đại, một bóng dáng thời đại hào hùng ngả vào từng trang thơ trác tuyệt, phản ánh một quá khứ lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam ta. Nổi bật trong thi phẩm chính là vẻ đẹp bức tranh tứ bình Việt Bắc chan chứa tình cảm của tác giả đối với con người và thiên nhiên nơi đây qua mười câu thơ sống động, đồng thời ẩn chứa niềm cảm hứng về tính dân tộc vô cùng sâu sắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Nổi bật trong phong cách thơ ông chính là giọng thơ trữ tình chính trị, viết về những vấn đề, sự kiện chính trị lớn của đất nước nhưng vô cùng gần gũi, tự nhiên, giọng thơ đầy dịu dàng, đằm thắm. Thơ ông luôn hướng đến cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của dân tộc. Hồn thơ ông là cái tôi chiến sĩ hóa thành cái tôi chung lớn lao, đại diện cho cả dân tộc mà viết nên những áng thơ trác tuyệt thuật về một thời quá khứ vàng son của nhân dân đất Việt. Nổi bật lên trên những sáng tác của ông là một tiếng ca hùng tráng, thiết tha mang tên “Việt Bắc”, thổi vào nền thi ca nước nhà một hơi ấm nóng hân hoan trong không khí mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Giữa những ngày đầu đông tháng mười năm 1954, trong giây phút chia tay đầy luyến lưu ân tình của những người con cách mạng miền xuôi và nhân dân miền núi Tây Bắc sau những tháng ngày cùng sẻ chia “tấm chăn sui”, “củ sắn lùi”, Tố Hữu đã xúc động viết nên những vần thơ ấy. Đặc biệt, ở mười câu thơ miêu tả vẻ đẹp của bức tranh tứ bình, những nhớ nhung, hoài niệm về thiên nhiên, con người nơi Việt Bắc lại càng đậm tràn, rõ nét hơn bao giờ hết
Đoạn thơ mở đầu với nỗi nhớ của “ta” với “mình” - một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp đã chảy trôi xuyên suốt trên từng dòng thơ con chữ của “Việt Bắc”:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Đáp lời người ở lại, người về xuôi cũng có những nỗi nhớ khôn nguôi, xót xa thầm kín, cũng có những bồi hồi, lưu luyến chỉ biết gói ghém trong hai lần điệp từ “Ta về”. Tiếng thơ cất lên mang theo niềm bâng khuâng du dương hướng về đất trời, con người nơi Việt Bắc. Dấu phẩy ngắt sau “ta về” tựa như thứ tình cảm ứ nghẹn nơi đầu môi, chực chờ bật thốt thành lời nói, men theo những mảnh ký ức khi xưa để mong mỏi một lần được trở về nơi chiến khu cũ, nơi chẳng biết “mình” còn nhớ “ta” hay không ?. Lối đối đáp giao duyên thân tình được đan cài thật tinh tế như một nốt nhạc lan theo tiết điệu đã thể hiện được âm hưởng dân gian và tính dân tộc trong những vần thơ của Tố Hữu, bởi người đọc đã dễ dàng bắt gặp những điệu hồn ấy trong ca dao xưa:
“Mình về ta ngóng ta trông
Ta về mình chẳng chút công đoái hoài”
Hình ảnh “những hoa cùng người” mang ý nghĩa sâu sắc khi hai từ “hoa” - “người” được đặt cạnh nhau và nối với nhau bởi chữ “cùng”. Phải chăng, nhà thơ muốn gửi gắm một ý nghĩa đặc biệt, rằng vẻ đẹp của người Việt Bắc tựa như hoa, hoa và người đứng cạnh nhau, hòa lẫn, không thể phân biệt, khi nhớ về hoa cũng là nỗi nhớ về người, nỗi nhớ người quyện cùng nỗi nhớ hoa. Hai câu thơ nhẹ nhàng dịu êm, rót vào lòng người đọc những tình cảm êm ái, thanh tao mà đằm sâu da diết của người về xuôi dành cho tất thảy những ai đã cùng họ đi qua suốt mười lăm năm dài ấy.
Trong cái nhìn trìu mến của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, ta bắt gặp những hình ảnh, biểu tượng, cảm xúc mãnh liệt cùng tạo tác thành bức tranh khung cảnh hài hoà từ đường nét đến màu sắc, từ tâm tình con người đến khung cảnh rực rỡ của thiên nhiên. Những rung cảm nội tâm được bộc lộ trong từng nét vẽ nơi bức tranh tứ bình bốn mùa luân chuyển trong vẻ đẹp con người lao động được tỏa sáng qua từng mùa đông - xuân - hạ - thu. Và mở đầu cho chặng hành trình khơi dậy nguồn cảm hứng ấy, ta được ngắm nhìn bức tranh mùa đông dạt dào sức sống với núi non xanh ngàn vĩ đại:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”
Ta thường nói đến mùa đông với những cơn gió mùa se sắt, lạnh lẽo, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất, sương giăng phủ kín cùng màn đêm đen kịt, tạo nên một không khí u tịch, lãnh đạm nơi rừng già heo hút. Vậy mà khi bước vào “miền thơ riêng” của Tố Hữu - “Việt Bắc”, nét buồn bạc cô liêu ấy đã được thay lên mình một gam màu tươi mát, màu xanh trầm tĩnh của đại ngàn, của sức sống chực chờ bừng rộ. Bức tranh thiên nhiên hiện lên trên nền xanh tươi của rừng già thăm thẳm, điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi. Qua lăng kính thị giác đầy tinh tế của người nghệ sĩ, những gam màu nóng, đậm sắc lại hoà quyện vào nhau uyển chuyển, đem lại cảm giác tươi tắn, rạo rực của một bức tranh đông, thay thế cho sự tịch liêu, hiu hắt vốn dĩ của thiên nhiên chốn núi rừng hoang vu. Trông xa, ta như thấy những ngọn đuốc hồng đỏ sáng rực lên cả cánh rừng, từng cụm từng chùm tạo thành một bức hoạ với hai gam màu xanh đỏ đan xen, đưa người thưởng ngắm đắm chìm vào nét vẽ sống động của nhà thơ dân tộc. Câu thơ khiến ta liên tưởng tới màu đỏ của hoa lựu trong thơ của đại thi hào Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Trong cái tưng bừng thắng lợi hòa cùng màu đỏ rực rỡ của hoa chuối nơi rừng xanh sâu thẳm ấy, nhà thơ đã khắc họa một bức tranh con người Việt Bắc với những phẩm chất cao quý: cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó thật đáng trân trọng và tự hào:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Dường như trong một thoáng, Tố Hữu đã dùng chiếc cọ của người hoạ sĩ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên với những đường nét chân thực, bật ra khỏi trang giấy. Những triền đèo cao không tĩnh lặng, nằm im lìm mà trở nên sống động trong sự vận động của con người, khi nhân dân Việt Bắc vẫn phải ngày ngày vượt qua cung đường đèo, lội suối để có thể hoàn thành công việc của mình. Hai chữ “nắng ánh” như nhãn tự của câu thơ, thể hiện tài hoa của tác giả trong việc sử dụng ngôn từ và biến hóa nghệ thuật đặc sắc. Vầng thái dương chiếu rọi vào chiếc dao gài bên thắt lưng, lóe lên một tia sáng, trở thành điểm sáng chói lọi nổi bật cả một tầm vóc con người lao động. Như một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, Tố Hữu đã bắt kịp khoảnh khắc tuyệt đẹp về người dân lao động, tái hiện khung cảnh làm việc hàng ngày, nơi có những con người luôn chăm chỉ, cẩn thận mài sắc con dao đến độ nó lóe lên khi nắng chiếu rọi vào. Con người giờ đây được đặt trong tâm thế hiên ngang giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí nơi trung tâm thiên nhiên ngút ngàn hùng vĩ, một tâm thế oai hùng lồng lộng như đã vượt lên cả không gian, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước sáng tỏa một vẻ đẹp rực rỡ của con người lao động cần cù trên miền Việt Bắc mến thương.
Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của thiên nhiên với những gam màu tinh khôi thuần khiết cùng hương thơm của những “mơ rừng” năm ấy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Từng chùm hoa mơ khoe sắc trong dải nắng dài mùa xuân, mở ra khung cảnh một khu rừng rực rỡ đang chào mời những người thưởng hoa ghé lại. Nhà thơ đã thật tài hoa khi sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” với từ “trắng” làm điểm nhấn để đi cùng động từ “nở” trong câu thơ, khiến sắc trắng như tỏa ra, trải dài khắp cánh rừng, lấn át, khiến người nhìn phải choáng ngợp và trầm trồ trước khung cảnh đẹp đẽ ấy. Nét thơ mộng và trắng trong đã bao trùm lên không khí chốn này, khiến lòng người cũng phải xao xuyến, bâng khuâng. Chính thi nhân từng nao lòng trước vẻ đẹp tinh khôi ấy: “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ” (Theo chân Bác, Tố Hữu). Tố Hữu đã đem tới cho ta cả một rừng mơ trắng đại ngàn, bởi đó là đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc, vừa tinh khôi, lãng mạn nhưng không kém phần mãnh liệt, khỏe khoắn.
Giữa nền trắng hoa mơ trong trẻo, tràn đầy sức sống ấy, mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”.
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Thật tự nhiên, nhẹ nhàng đi vào trang thơ với hình ảnh con người Việt Bắc cặm cụi chuốt từng sợi giang, tỉ mẩn đan từng chiếc nón như kết tinh cho sự yêu thương, chờ mong dành cho người nơi bên kia chiến tuyến. Lượng từ “từng” được đặt vào câu thơ một cách khéo léo, không gượng ép nhưng đã tạo nên một hiệu quả ngôn từ đặc biệt. Từng sợi từng sợi, sự tỉ mẩn, khéo léo của người lao động hiện lên qua từng chi tiết nhỏ nhất trong cách dùng từ của nhà thơ. Tố Hữu “nhớ” bởi sự ấn tượng từ công việc đòi hỏi kỹ nghệ cao ấy, đến khi trông thấy tận mắt cái vẻ tỉ mỉ, khéo léo của nhân dân lao động, ông đã bật thốt đầy thán phục trước quá trình chăm chút “chuốt” từng sợi giang mà người lao động đã nhẫn nại hoàn thành.
Trong bút pháp trữ tình của Tố Hữu, bức tranh mùa xuân khép lại trong cánh rừng mơ đợi chờ, nhường bước cho vùng trời mùa hạ của cánh rừng phách vàng ươm, tựa như một bức tranh sơn mài vừa có nhạc vừa có hoạ, vừa cổ điển vừa hiện đại:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Đi qua cơn đông xanh thẫm máu lá cây rừng, lại đắm chìm mình vào màn xuân từng làn hoa mơ trắng muốt toả hương thơm , giờ đây khi thời gian đã đi qua đến một nửa, ta lại dừng chân nơi rừng già Việt Bắc, nơi sắc vàng rực rỡ của cây phách và tiếng ve kêu vang động cả mùa hạ. Động từ “đổ” càng góp phần nhấn mạnh sắc màu đặc trưng của mùa hạ nơi đây. Bức tranh mùa hạ không còn những nét chấm phá nhẹ nhàng, không điểm xuyết xen lẫn nhiều gam màu mà nó chứa riêng một màu vàng, ta tưởng như người “danh họa” Tố Hữu đang đổ cả bảng màu vào bức tranh ấy, để mực màu chảy tràn, bao phủ cả không gian. Chỉ với sáu âm tiết, câu thơ như gói ghém tất thảy mọi sự vận động của không gian, thời gian vào trong con chữ, nơi bức tranh mùa hạ không chỉ có màu sắc và hình khối, nó còn sinh động hơn bao giờ hết nhờ thanh âm của tiếng ve sầu râm ran cả rừng già. “Ve kêu”, “phách đổ vàng”, tất cả như báo hiệu, như giục giã mùa hạ về thật nhanh với đại ngàn Việt Bắc. Sự tài tình của tác giả không chỉ thể hiện ở lời thơ giàu tính hình và tính nhạc mà còn bởi giữa không gian rạo rực của thiên nhiên ấy, ông biết cách nhẹ nhàng gửi vào đó hình ảnh của một “cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn “hái măng một mình”, “một mình” nhưng không hề cô đơn, không hề lẻ loi bởi cô gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc rừng, cô xem thiên nhiên là “bạn”, xem công việc “hái măng” để góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến. Sự lao động miệt mài, thầm lặng ấy là hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến một lòng hướng về Tổ quốc với cái nhìn trông mong, đợi chờ một ngày mai tươi sáng.
Tố Hữu đã thả vào bốn mùa những nét đặc trưng riêng biệt của miền Việt Bắc mến thương: Mùa đông với hoa chuối đỏ tươi, mùa xuân với hoa mơ trắng rừng và hè về với màu vàng rừng phách. Đến với mùa thu, mùa cuối cùng để khép lại chuỗi quy luật tuần hoàn của thiên nhiên vạn vật, Tố Hữu chọn trăng - điều huyền diệu mang màu bình yên đã tạo nên những nét đẹp rất riêng cho bức tranh tứ bình:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
“Không biết tự bao giờ, ánh trăng đã là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân… Ở đó, nó đã trở thành một âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn có sức ám ảnh, khơi gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình, hạnh phúc và khổ đau, quê hương và gia đình, tình yêu và thân phận con người…” . Và kì thực khi bước vào thơ ca Tố Hữu, trăng, cùng với mùa thu và con người đã khoác lên trang thơ một màu sắc yên bình thật đặc biệt, thật hiếm có. Vầng trăng, người bạn tri kỷ của biết bao thi sĩ đã theo chân người chiến sĩ từ những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn; đến nay khi hòa bình lập lại, trăng vẫn còn đó, “rọi” những ánh hòa bình xuống trần gian như làm êm dịu lòng người xao động sau những mất mát đau thương của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Trăng rọi từng hẻm đường, trăng rọi vào lòng ta, vỗ về ta rằng hòa bình đang ở rất gần, đang ngự tại núi rừng, đang chảy trôi trong lòng con dân đất Việt. Một cảm giác êm ả và bình yên đã tràn đầy trên những câu thơ, đưa người đọc đến một thế giới với những cảm xúc êm dịu chân tình nhất. Hòa bình sẽ là động lực to lớn thúc đẩy nhân dân ta tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến cho quê hương Tổ quốc. Trăng là người bạn tâm tình, là chứng nhân lịch sử trên từng chặng đường dài của dân tộc. Trăng đi vào “Đồng chí” soi sáng tình đồng đội, trăng nhắc nhở con người sống ân tình trong “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, trăng là người bạn tâm giao, soi sáng những trang “Nhật kí trong tù” của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Dưới ánh trăng của hòa bình, của chiến thắng, một “tiếng hát” ngân lên thứ làm nên chất thơ của cuộc đời các anh chiến sĩ. Đại từ phiếm chỉ “ai” như thả vào khoảng không vô định một tiếng hát ngân nga giữa không trung,hoặc ngụ ý chỉ nhân dân, chiến sĩ và cán bộ đang đồng lòng cất lên “tiếng hát ân tình thủy chung” ấy. Lời hát ân nghĩa thủy chung đã khép lại đoạn thơ, đồng thời mở ra toàn bộ những thước phim kỷ niệm sống động về vùng trời mười lăm năm ấy. Người cán bộ lại nhớ mong về những ngày gian khó, cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua muôn vàn khắc nghiệt của núi rừng nơi đây; cùng đắp chung mảnh chăn sui, ăn chung cơm vừng muối mặn. Dân và quân chung lý tưởng, họ đồng lòng hướng ánh mắt sáng trong và can trường về ngọn cờ Tổ quốc kính yêu. Để rồi, khi phải rời xa nhau sau những năm tháng kháng chiến đầy vất vả nhưng cũng nhiều kỷ niệm ấy, họ ngậm ngùi không nỡ, quyến luyến bịn rịn. Tất thảy những tình cảm ấy gói gọn lại, thiêng liêng trong bốn chữ “ân tình thủy chung”. Bởi cho dù có đi đâu, tấm lòng những con người ấy vẫn son sắt mà nhớ về nhau, mến yêu và biết ơn vì suốt những năm tháng dài rộng ấy, họ đã ở bên nhau.
“Một nghệ sĩ chỉ có thể coi là nhà văn mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta thấm nhuần tính dân tộc” (Goethe). Ngẫm lại toàn bộ sự nghiệp thi ca của Tố Hữu, hình như sức sáng tạo của ông không phải ở sự tìm kiếm cái mới mà đi tìm trầm tích trong bề sâu cội nguồn dân tộc. Thế nên, mỗi trang thơ ông viết mang điệu hồn, hơi thở của đồng đất quê hương thân thuộc bao đời. “Việt Bắc” là bài thơ mang sắc màu dân tộc đậm đà xét ở cả hai phương diện nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Khơi nguồn từ một sự kiện chính trị của đất nước, bài thơ phản ánh những vấn đề trọng đại của cộng đồng. Đó là đời sống, tình cảm cách mạng, tái hiện chân thực chặng đường lịch sử vẻ vang thời đánh Pháp gian khổ hào hùng. Đặc biệt, với khúc tình ca “Việt Bắc”, Tố Hữu đã khơi sâu mạch nguồn truyền thống dân tộc đó là đạo lý thủy chung, ân nghĩa “uống nước nhớ nguồn” vốn có từ ngàn xưa trong nếp sống ông cha. Bản hùng ca hòa cùng giai điệu tình ca quyến rũ say mê. Chính trị mà sâu thẳm trữ tình, chan chứa yêu thương. Bên cạnh đó, màu sắc dân tộc đậm đà trong “Việt Bắc” được biểu hiện qua hình thức kết cấu độc đáo, quen thuộc trong ca dao trữ tình. Lối kết cấu đối đáp người xưa hay sử dụng để thổ lộ tình cảm lứa đôi được Tố Hữu vận dụng truyền tải nghĩa tình cách mạng. Vấn đề chính trị trong thơ bỗng nhiên mang âm hưởng trữ tình, sâu lắng ngọt ngào như lời lẽ giữa hai người yêu nhau nay chia biệt cách xa. Đồng thời, để tạo giọng điệu ngọt ngào, da diết, sâu lắng ân tình, Tố Hữu đã tìm đến thể thơ lục bát truyền thống với nhiều cách tân sâu sắc. Trên nền nhịp chẵn của lục bát, nhà thơ còn tạo nhịp du dương phù hợp với tâm trạng buổi chia ly lưu luyến, dạt dào cảm xúc. Thể thơ lục bát truyền thống được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài một trăm năm mươi dòng, vừa tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng. Câu thơ lúc dung dị, dân dã gần với ca dao, lúc thì cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng đến độ cổ điển. Là một bài thơ trữ tình hóa dân gian, tiếp biến, chính trị, nhưng Tố Hữu đã tiếp thu mạch nguồn văn sáng tạo làm nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ Việt Bắc. Đậm đà tính dân tộc nhưng vẫn luôn mới mẻ đó là thành công của nhà thơ cách mạng Tố Hữu trong các sáng tác của mình.
Thi phẩm “Việt Bắc” đã ngân lên một khúc tình ca về tấm lòng son sắt và nỗi nhớ nhung giữa kẻ ở người đi, từ đó đúc kết nên nghĩa tình thủy chung - thứ tình cảm thiêng liêng mà mỗi người cần giữ lấy, trân trọng và lan tỏa. Những cảm xúc bịn rịn, luyến lưu đã được viết thành những áng thơ dạt dào và chan chứa, lồng ghép nhiều nghệ thuật đặc sắc cốt để làm nên một tác phẩm chân chính hướng đến người đọc. Cặp từ hô ứng đồng vọng “mình” - “ta” được vận dụng xuyên suốt bài thơ, vang vọng những khúc ca dao xưa và chảy trôi một tình cảm gắn bó trong tâm khảm của nhân dân và cán bộ. Không chỉ vậy, Tố Hữu còn tạc nên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp với những mảng màu rực rỡ được phối bởi người nghệ sĩ tài ba, từ đó ca ngợi tầm vóc con người trên nền cảnh thiên nhiên. Đôi mắt quan sát thế gian của “người họa sĩ” và trí liên tưởng tài ba của “người thi sĩ” đã cùng nảy sinh trên một tâm hồn giàu tình cảm hết mực trân quý con người và quê hương Cách mạng. Điểm đặc sắc nhất trong đoạn thơ này có lẽ là việc vận dụng tài ba “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” của Tố Hữu. Trong thơ như có họa, họa từ những gam màu đỏ trắng vàng xanh mà người nghệ sĩ vẽ nên, hài hòa và nên thơ như một bức họa “động”. Trong thơ như có nhạc, nhạc từ tiếng ve kêu, từ tiếng hát ân tình nơi đầu môi hay trong trái tim mỗi người, vang lên những điệu hồn dân tộc thiêng liêng mà gần gũi. Mười câu thơ đã thành công thể hiện ngòi bút tài hoa của người cán bộ Tố Hữu, trong việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian thông qua thể lục bát, kết hợp cùng những nghệ thuật đặc sắc trong cách dụng ngôn và thể hiện hình ảnh. Đồng thời, nhà thơ cũng thành công trong việc nuôi dưỡng tâm hồn người đọc hướng đến những giá trị tốt đẹp, khiến ta biết trân trọng quê hương, giữ gìn văn hóa dân tộc trên hành trình phát triển đất nước hoàn thiện ngày một đẹp đẽ.
Tựa như dòng viết của nhà văn Nhật Haruki Murakami trong quyển sách “Sau nửa đêm” rằng: “Con người chúng ta có thể dùng kí ức làm nhiên liệu để mà sống”. Và có thể nói, nếu có một hợp chất mang tên “thơ ca” trong cuộc đời, thì những nguyên tố cấu tạo nên hợp chất ấy chính là tình cảm mãnh liệt và tài hoa mà người nghệ sĩ đã gửi gắm. Xúc cảm và nỗi nhớ - dù hiện về nguyên hay được ví như điều gì, thì nó vẫn luôn êm dịu, tha thiết và hoà điệu, như những ý, những tình sâu đậm mà thi sĩ Tố Hữu gửi vào “Việt Bắc”. Giữa những ngày đầu đông tháng 10 năm 1954, khi những cơn gió ngàn vùng cao bắt đầu thổi, ngoài trời kia trở rét thì có một làn hơi ấm khác đã thổi vào lòng người, thổi vào thi đàn dân tộc, đó là làn hơi của khúc ca mừng chiến thắng “Việt Bắc”. Nơi nỗi nhớ về nghĩa tình gắn bó với thiên nhiên và con người nơi chiến khu Việt Bắc, những ngày tháng “nằm gai nếm mật” giữa bom rơi đạn lửa, không quản ngại gian khổ chiến đấu giành độc lập hoà bình cho Tổ Quốc đã quyện hoà sâu sắc vào thi phẩm này. Và đặc biệt trong mười câu thơ về bức tranh tứ bình đã họa nên những khung cảnh thiên nhiên đặc sắc qua ngòi bút của người sáng tác, để từ đó gửi gắm đến thế hệ mai sau lối sống nghĩa tình thủy chung và những giá trị tư tưởng, nhân văn cao đẹp khác...Xem thêm