DECUONG.VN Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Phân tích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 2 bài văn mẫu hay, đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi lớp 10. Qua đó các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, đối chiếu bài viết của mình để rút ra kinh nghiệm, biết cách viết bài văn phân tích ngày một hay hơn.

Bài phân tích số 1:

“Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”

Câu nhận định của Chế Lan Viên như một lời khẳng định giá trị của kiệt tác “Truyện Kiều” và ngòi bút tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du . Trong phần hai “gia biến và lưu lạc” thuộc tác phẩm “Truyện Kiều”, độc giả không chỉ cảm nhận được nét tinh tế trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, nỗi lòng thương xót của Nguyễn Du trước số phận khổ đau của nhân vật mà còn thấy chân dung của một bậc anh hùng khí phách, tài hoa – Từ Hải. Khác với Kim Trọng – mối tình đầu của Thuý Kiều, Từ Hải mang nét anh hùng, ngạo nghễ, khí phách. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp người anh hùng Từ Hải và khát vọng tự do, công lý, chí khí, lý tưởng của chàng.

Một lần nữa số phận Kiều lại rơi vào vòng xoáy khổ đau khi lần thứ hai bị lừa vào lầu xanh. Cuộc đời bị đẩy vào ngõ tối, tưởng chừng như chẳng cách nào giải thoát thì Từ Hải xuất hiện như một ngọn đèn soi sáng số phận Kiều. Từ Hải cứu Thuý Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh, hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng gia đình hạnh phúc êm ấm lại chẳng níu chân được người anh hùng, Từ Hải muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Thuý Kiều ra đi vì chí lớn. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” từ câu 2213 đến câu 2230 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khi của Từ Hải.

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”

Mở đầu đoạn trích là niềm khát khao lý tưởng của người anh hùng. Câu thơ đầu khắc hoạ lên thời gian “nửa năm” êm đềm có lẽ là hiếm hoi trong cuộc đời Thuý Kiều chính là thời gian nàng và Từ Hải chung sống hạnh phúc. Hình ảnh ẩn dụ “Hương lửa đương nồng” thể hiện tình cảm vợ chồng đang lúc đằm thắm, mặn nồng. Dường như không chỉ cuộc sống của Kiều êm đềm mà chính cuộc sống của Từ Hải cũng hiện lên đầy viên mãn, vẹn trọn trong mái ấm gia đình. Từ Hải chọn ra đi trong hoàn cảnh ấy như một sự thử thách chí lớn. Nguyễn Du đã chọn từ Hán – Việt “Trượng phu” để gọi Từ Hải, không chỉ thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả khi dùng từ ngữ mang sắc thái trang trọng mà còn thể hiện Từ Hải là người nam nhi trượng phu có hoài bão. Từ “thoắt” bộc lộ suy nghĩ dứt khoát, quyết định nhanh chóng giống như tính cách người anh hùng. Kết hợp với từ “thoắt” là động từ “động lòng” ý chỉ sự thôi thúc, giục giã bừng lên chí anh hùng, chí “bốn phương”. Nhân vật Từ Hải với chí lớn được đặt trong không gian “bốn phương”, “trời bể mênh mông”, rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ. Không gian rộng mở, kì vĩ vô cùng nhưng không hề lấn át đi hình ảnh người anh hùng mà còn như nâng hình ảnh Từ Hải lên sánh ngang với trời bể, thể hiện khát khao vùng vẫy, tung hoành khắp nơi như sức mạnh tự nhiên không gì có thể ngăn cản. Điểm nhìn “trông vời” cuả Từ Hải là nhìn xa nhưng chứa đựng những khát khao hoài bão lớn. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng ngạo nghễ, tự tin, phong trần. Không chỉ vậy hình ảnh “lên đường thẳng rong” thể hiện phong thái qủa quyết, đầy khí phách của người anh hùng. Câu thơ cuối đã khắc hoạ một tư thế đẹp, hiên ngang cùng thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm dựng lên nghiệp lớn của người quân tử. Đây là tư thế của người anh hùng mang hùng tâm tráng trí. Qua bốn câu thơ đầu độc giả hình dung được vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải ở niềm khao khát lý tưởng lên đường thực hiện chí lớn. Khát vọng ấy dù được đặt trong hoàn cảnh thử thách nhưng Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, vì tình yêu mà quên đi lý tưởng cao cả. Không gian vũ trụ rộng lớn đã tô điểm cho tầm vóc người anh hùng với ý chí cao đẹp.

Vẻ đẹp chí khí, lý tưởng của người anh hùng càng được khắc hoạ rõ nét và nổi bật qua lời đối thoại giữa Thuý Kiều và Từ Hải trong mười hai câu thơ tiếp theo.

“ Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đát bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Lời Thuý Kiều được thể hiện qua duy nhất một cặp câu lục bát nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình cảm và sự khéo léo của nàng. Về lý nàng nói về bổn phận của người vợ trong đạo Nhọ quy định “tam tòng”, phận gái phải theo chồng. Về tình nàng “một lòng xin đi”, nàng lấy tình cảm thuỷ chung, son sắc, một lòng một dạ để theo chồng. Lời nói của Kiều vừa có lý vừa có tình qua đó ánh lên vẻ đẹp người phụ nữ truyền thống, vẻ đẹp nhân cách của người vợ sẵn sàng sẻ chia với chồng và sự tế nhị khéo léo trong giao tiếp của nàng. Trước lời nói thuận tình thuận lý của vợ nhưng Từ Hải vẫn từ chối. Chàng coi Thuý Kiều không chỉ là vợ mà còn là “tâm phúc tương tri” ý chỉ tri kỉ, người thấy hiểu nhau sâu sắc. Câu hỏi tu từ “sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” như một lời trách cứ nhẹ nhàng rằng đã coi nhau là tri kỉ, thấu hiểu lòng dạ nhau sau còn giữ nếp nghĩ của nữ nhi bình thường. Lời trách cứ nhưng lại như lời khuyên nhủ Thuý Kiều vượt lên tình cảm thông thường để sánh với tư tưởng người anh hùng. Sau lời từ chối là lời hứa hẹn được tô đậm bởi biện pháp phóng đại. Hình ảnh “muời vạn tinh binh”, “bóng tinh” cùng âm thanh “tiếng chiêng” được phóng đại đã khắc hoạ khát vọng to lớn của Từ Hải về chiến thắng lừng lẫy, vang dội, một sự nghiệp ghi danh kì vĩ ở vùng trời tự do. Hình ảnh “mặt phi thường” hoán dụ chân dung Từ Hải – con người tài năng, xuất chúng với nội lực bên trong thôi thúc người anh hùng thực hiện giấc mộng công danh. Mục đích đằng sau khát vọng về chiến thắng lừng lẫy không chỉ là hoài bão lập nghiệp lớn mà còn đề “rước nàng nghi gia”. Nghi gia là một nghi thức trang trọng khi người chồng đón vợ về nhà. Sự nghiệp công danh của Từ Hải cũng chỉ với mong ước cho Kiều một danh phận, một vị thế xứng đáng mà con người nàng đáng được hưởng. Qua đó mà ta thấy sự trân trọng của Từ Hải đối với vợ, dù xã hội có đưa đẩy nàng vào vũng bùn lầy hôi thối thì Từ Hải vẫn quyết đứng lên đòi lại cuộc sống êm đềm nàng đáng được hưởng. Chí khí anh hùng của Từ Hải gắn với tình yêu thương, tinh thần trách nghiệm của một người chồng. Ước vọng lớn nhất của chàng là hoàn thành sự nghiệp cũng là thời khắc đưa Kiều về nhà trong chiến thắng vang dội khiến hạnh phúc thêm ý nghĩa hơn. Ta thấy trong con người Từ Hải toát ra cái phi thương kết hợp với cái bình thường. Bốn câu thơ cuối là lời đối thoại lại như lời độc thoại trần tình của Từ Hải. Nỗi khổ tâm của người anh hùng về hoàn cảnh thực tại “bốn bể không nhà”, “biết là đi đâu”. Sẽ còn rất nhiều thử thách, khó khăn đang chờ Từ Hải nên chàng mong Kiều thấu hiểu cảm thông mà ở lại. Khép lại lời nói của Từ Hải là lời hẹn ước đối với Thuý Kiều một năm sau sẽ có chiến thắng, sự nghiệp lẫy lừng trong tay. Một lời hứa chắc nịch với thời gian cụ thể “một năm sau” như một sự khẳng định của Từ Hải – một con người tự tin vào chí hướng tài năng của bản thân. Mười hai câu thơ mở ra với chí khí khát vọng rộng lớn của Từ Hải và khép lại bằng tư tưởng nhân văn cao đẹp của chàng.

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm phơi.”

Hai câu thơ kết của đoạn trích thể hiện khát vọng, hành động lên đường của người anh hùng. Ba động từ mạnh “quyết lời”, “dứt áo”, “ra đi” cho độc giả thấy được hành động mạnh mẽ, quyết đoán, dứt khoát, không chút do dự, không bịn rịn. Tác giả sử dụng điển tích ví Từ hải như cánh chim bằng cưỡi gió mà bay lên bầu trời tự do. Điển tích được trích trong sách “Trang Tử” thiên “Tiêu dao du” là hình ảnh ẩn dụ kì vĩ hoá vẻ đẹp, tôn lên tầm vóc người anh hùng qua đó vẽ nên một tư thế lồng lộng giữa vũ trụ, thiên nhiên mang tinh thần lạc quan, lãng mạn, bay bổng. Vẻ đẹp của con người phi thường giữa không gian trải rộng cùng khát vọng xây dựng nghiệp lớn khát vọng tự do mang tầm vóc vũ trụ. Hai câu thơ cuối là cái nhìn của Nguyễn Du, tác giả đã khái quát hình ảnh anh hùng Từ Hải với khát vọng, lý tưởng cao đẹp và phi thường. Tác gỉa thể hiện sự khâm phục ngợi ca trước người anh hùng với chí khí cao cả.

Với cảm hứng sáng tạo, lãng mạn cùng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lý tưởng hoá đã vẽ nên một nhân vật Từ Hải có chí khí, lý tưởng anh hùng. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, Từ Hải mang khát vọng tự do trong cuộc sống, có tư tưởng nhân văn cao đẹp, thể hiện nét bình dị, bình thường trong con người phi thường, cao cả. Nhân vật Từ Hải đã vượt qua khỏi tư tưởng, lễ giáo phong kiến mà theo đuổi khát vọng, tự do. Bằng ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca, Nguyễn Du qua hình tượng Từ Hải gửi gắm ước mơ về công lý, tự do trong xã hội.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc hoạ cuộc chia tay của Thuý Kiều và Từ Hải nhưng không hề có sự bịn rịn, níu kéo mà là sự dứt khoát, mạnh mẽ qua đó nổi bật lên chí khí người anh hùng Từ Hải. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng ngợi ca trước lý tưởng, ước mơ tự do vùng vẫy ngang dọc của Từ Hải. Hình ảnh người anh hùng ấy không chỉ là ánh sáng của cuộc đời Kiều mà còn là ánh sáng trong xã hội phong kiến thối nát.

Bài phân tích số 2:

Tố Hữu đã từng dành những lời ngợi ca sâu sắc nhất cho một nhà đại thi sĩ rằng:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du cùng với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Ở đó, ẩn sau số phận cuộc đời mỗi nhân vật đã được nhà đại thi hào của dân tộc chúng ta gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Và trong số những trích đoạn của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí , khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng…

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc, từ câu 2213 đến câu 2230. Lúc ấy, khi mà Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải, Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm" thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi.

Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với ngòi bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Nửa năm chính là khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc bên nhau. Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng ấy khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập: Một bên là không gian khuê phòng “hương lửa đương nồng” với cuộc sống vợ chồng đằm thắm mặn nồng, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Từ Hải được đặt trong hoàn cảnh thử thách chí lớn, khi chàng phải lên đường giữa lúc hạnh phúc gia đình trọn vẹn, viên mãn. Đường đường là đấng “trượng phu” – một người đàn ông có hoài bão chí lớn, chàng không một chút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Những từ ngữ, hình ảnh: “thoắt”, “động lòng bốn phương” đã thể hiện một quyết định nhanh chóng, dứt khoát, bừng lên cái chí anh hùng giữa trời bể mênh mông của Từ Hải. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn vẽ lên tư thế tự tin, ngạo nghễ, hiên ngang với thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí. Bốn câu thơ đầu thể hiện một khát vọng thực hiện chí lớn của chàng anh hùng họ Từ. Khát vọng ấy không những được đặt trong một bối cảnh đặc biệt để thấy một Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả; mà còn được đặt trong một không gian vũ trụ rộng lớn để tôn lên tầm vóc người anh hùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã viết, phận nữ nhi: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều lúc này, Từ Hải chính là điểm tựa tinh thần duy nhất. Từ đã dang tay cứu vớt cuộc đời Kiều, cho Thúy Kiều những ngày tháng hạnh phúc nên theo quy luật tâm lý thông thường, Kiều luôn muốn gắn mình với Từ Hải. Đó là tình yêu, là sự cảm thông, là đức hi sinh thủy chung son sắt với chồng của nàng Kiều. Ấy thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Bằng một câu hỏi tu từ, Từ Hải như vừa trách vừa khuyên Kiều không cần phải sống theo đạo tam tòng cổ hủ của đời xưa, mong vợ mình vượt lên khỏi cái suy nghĩ đó để là người sánh vai với đấng anh hùng như chàng. Từ Hải đã từ chối khéo léo để Kiều hiểu ra vấn đề, từ đó thấy được sự thấu hiểu sâu sắc của chàng đối với vợ mình, khẳng định tình cảm giữa hai người là tri âm tri kỉ chứ không phải tình yêu đơn thuần. Hơn thế nữa, Từ Hải còn vẽ ra viễn cảnh tương lai qua trí tưởng tượng và sự tự tin ngạo nghễ của người anh hùng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Bút pháp ước lệ tượng trưng cùng những hình ảnh, âm thanh được phóng đại: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh” và biện pháp hoán dụ “mặt phi thường”,… tất cả đã khắc họa lên sự kì vĩ, hùng tráng, vang dội của những chiến công sánh vai với chân dung của người anh hùng tài năng xuất chúng. Có thể thấy, Từ Hải ở thực tại nhưng dường như đang sống ở những ngày chiến thắng. Mục đích của chàng là để khẳng định danh tiếng của bản thân giữa đời và hơn hết, Từ Hải muốn có sự nghiệp để đón rước Kiều về làm vợ với nghi lễ trang trọng nhất: “rước nàng nghi gia”. Đó là chí khí anh hùng gắn liền với tình yêu thương, coi trọng Kiều. Tuy nhiên, mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Chàng mong vợ thấu hiểu, cảm thông cho nỗi khổ tâm của mình cũng chính là của người anh hùng khi sự nghiệp vừa bắt đầu còn nhiều khó khăn, gian khổ. Sau những lời lẽ đầy quan tâm ấy là lời hứa hẹn ước một năm sẽ thực hiện giấc mộng công danh của Từ Hải. Điều đó cho thấy, Từ Hải không chỉ có khát vọng, hoài bão mà còn có quyết tâm với ý chí, nghị lực phi thường. Thông qua cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm về người anh hùng là sự thống nhất giữa một con người đời thường giản dị với một đấng trượng phu đầy quyết tâm hoài bão. Từ Hải không chỉ mang khát vọng lớn lao mà còn rất mực tâm lý, vừa yêu, hiểu lại trân trọng Thúy Kiều.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bởi hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Nhịp thơ 2-2-2 cùng với các động từ mạnh liên tiếp: “quyết”, “dứt”, “ra đi” đã miêu tả sự dứt khoát, mạnh mẽ của Từ Hải. Từ Hải không một chút băn khoăn, do dự, đắn đo mà luôn mạnh mẽ, dứt khoát trong mọi hoàn cảnh. Sử dụng điển tích điển cố “chim bằng” cùng với hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã càng tô đậm sự kì vĩ, phi thường, tư thế lồng lộng của Từ Hải giữa vô cùng của tự nhiên. Nguyễn Du dường như đã lựa chọn những hình ảnh đẹp đẽ nhất để miêu tả và tôn vinh Từ Hải bằng cái nhìn lạc quan, bay bổng của mình.

Qua ngòi bút của Nguyễn Du, “Chí khí anh hùng” đã được vẽ lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, với hình ảnh “bốn bể”, “chim bằng”...lấy cái bao la, rộng lớn của vũ trụ để hình dung về khao khát làm nên sự nghiệp lớn của Từ Hải. Mặt khác, ông còn thổi hồn vào tác phẩm của mình những cảm hứng sáng tạo lãng mạn, chính là tình cảm, là tình yêu thương, là tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều dành trọn cho nhau bằng niềm tin tưởng vào tương lai. Từ Hải và Thúy Kiều không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà nó đã trở thành “tâm phúc tương tri”, hiểu nhau sâu sắc, nàng hiểu ta cũng như ta hiểu nàng. Không những thế, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy sự tinh tế, tài tình của mình khi lí tưởng hóa hình ảnh người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ cứu giúp đời Từ Hải - một đấng trượng phu có lí tưởng cao cả nhưng vẫn rất bình dị, và là biểu tượng của khát vọng tự do, của tư tưởng nhân văn cao đẹp. Và từ đó, ông gửi gắm trọn vẹn giấc mơ công lí, khát vọng tự do trong cuộc sống, gửi gắm giấc mơ của mình vào hình tượng người anh hùng Từ Hải nói riêng và đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói chung.

Như vậy, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ. Nhờ đó mà dưới ngòi bút của Nguyễn Du, nhân vật luôn có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

👉 Đoạn trích Chí khí anh hùng là một tác phẩm nổi bật trong ngữ văn lớp 10, ngoài bài làm văn Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng. Hi vọng những bài văn mẫu hữu ích sẽ hỗ trợ cho quá trình học tập của các bạn dễ dàng và hiệu quả hơn.