Ai đó đã nói rằng: “Điều kì diệu tuyệt đỉnh của nghệ thuật, đặc biệt thi ca, là ở nơi đó ta có thể tự do sắp đặt một thế giới riêng như mình khao khát. Thế giới ấy dẫu ảo huyền hay u ám tới đâu cũng phải thấm đẫm tính nhân văn cao cả, hướng nhân loại tới sự cao đẹp.” Thi ca bao giờ cũng thế, phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi nhân quay lưng với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia mà tạo thành, nhà thơ phải đến đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính hiện thực cuộc sống, dù nó có thế nào đi chăng nữa thì thơ anh vẫn phải “thấm đẫm tính nhân văn cao cả” và phải “hướng nhân loại tới sự cao đẹp”. Hồ Chí Minh đế với thơ ca cũng vậy, những trang thơ của Người mang đậm trong mình chất “thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú vui tiêu khiển, tạm quên đi cảm giác khó nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người, đặc biệt qua bài thơ “Chiều tối” đã cho ta thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đầy phi thường của người tù cách mạng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một chiến sĩ chủ động tích cực trên mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn chương: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ta vẫn thường thấy những thi phẩm nghệ thuật thường ra đời trong hoàn cảnh rất đỗi nên thơ, khi trà dư tửu hậu hoặc lúc tức cảnh sinh tình, nhưng thơ Bác ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng thơ tuyệt bút. “Mộ” (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một buổi chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm 1942. Đây được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi bật cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng – Trung Quốc).
Ngay từ những nét phác họa đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính, đậm nét của thi ca cổ điển:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Bằng bút phát chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim – hình ảnh ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn Du đã từng viết:
“Chim hôm thoi thóp về rừng”
Hay như bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:
“Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
Và đến tận sau này cánh chim ấy vẫn làm xao xác cả hoàng hôn trong thơ Huy Cận:
“Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”
Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt và tâm trạng của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban ngày gần vụt tắt hẳn, người đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời – nơi vẫn có chút ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt (quyện điểu) đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ. Chẳng lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi màn đêm buông xuống còn người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên con đường gian khổ mà chẳng biết điểm dừng chân sẽ là ở đâu. Sẵn có một tâm hồn nhạy cảm nên Người không thể không chạnh lòng và gợi lên nỗi nhớ quê hương cồn cào, da diết, dường như Bác cũng muốn dừng chân sau một hành trình nhọc nhằn đầy khó khăn:
“Năm mươi ba dặm một ngày trời
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi…”
Ngược dòng thời gian, ta sẽ bắt gặp tứ thơ tương tự qua những vần thơ của Lí Bạch:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
Cũng là cánh chim, chòm mây lẻ nhưng thơ Lý Bạch và thơ Bác chỉ giống nhau ở hình xác thi liệu, còn hai thế giới cảm xúc là hoàn toàn khác nhau: Thơ Lí Bạch tái hiện hình ảnh cánh chim bay vào cõi hư vô lạnh buốt mang cảm hứng thoát tục lánh đời còn cánh chim trong thơ Bác có điểm đến rất rõ ràng: về rừng – về với cõi trần gian gần gũi, về với tổ ấm thật thân thương. Nhìn cánh chim mà Người thấy trong dáng bay của nó có cả sự mệt mỏi. Phải chăng đó chính là tình cảm nhân đạo, là tấm lòng cảm thương cho cánh chim sau một ngày vất vả lam lũ. Cái nhìn ấy thể hiện sự nhân ái, bao la của Người đối với vạn vật như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”
Trong câu thơ sau “Cô vân mạn mạn độ thiên không” mang đậm đà phong vị cổ thi và đẹp như một câu thơ Đường, cũng mượn thi liệu quen thuộc là hình ảnh chòm mây để miêu tả cảnh chiều tà:
“Bạch vân thiên tải không du du”
(Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay)
(Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu)
Song những áng mây trong thơ Bác không phong lưu, cao sang mà rất bình dị, êm ả của bầu trời miền sơn cước. Đối chiếu với bản dịch thơ, rất tiếc người dịch đã làm mất đi sự cô đơn, lẻ loi của đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi niềm, giúp ta hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn). Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” – “thiên không”, đối lập giữa không gian cao rộng, thoáng đạt của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng mở mênh mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá cổ điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà ngược lại giúp chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm. Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê hương:
“Năm tròn cố quốc thân vô tội
Hóa lệ thành thơ tả nỗi này”
Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Bức tranh ấy hoàn toàn không có dây trói hay gông xiềng, tư thế một tù nhân đã thay thế hoàn toàn bởi tư thế của một hành nhân, một thi nhân. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt vọng. Và người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho vạn vật, cho tự nhiên vốn dĩ rất thơ mộng này. Tự chủ trong cái nhìn thiên nhiên và đồng thời con người cũng tự chủ trong cả những cảm xúc vui buồn. Hai câu thơ không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang tự do tự tại trước cảnh ngộ éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao”.
Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
(Hoàng Trung Thông)
Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ không gian thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh cô thiếu nữ xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu mang đậm tính dân chủ cho văn chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình tượng thơ:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người bị hòa vào thiên nhiên, họ thường nhỏ bé, cô đơn, thường tĩnh lặng, thụ động và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh như trong bài “Qua đèo ngang” của bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Hay như trong thơ Đường, hình ảnh ẩn sĩ hiện lên dưới cánh chim ngàn mây núi buông câu thả cá mà cũng như buông xuôi cuộc đời:
“Ngàn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không
Thuyền đơn ông tới nón
Một mình câu tuyết sông”
(Giang Tuyết – Liễu Tông Nguyên)
Nhưng khi đến với bài thơ “Chiều tối”, trung tâm của bức tranh giờ đây lại là con người – hình ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hòa hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này, dường như xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn liền với cộng đồng “sơn thôn” của mình, đó vẫn luôn là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
“Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”
(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Ở câu thơ thứ 3 lại một lần nữa bản dịch thơ không thể thể hiện được hết ý nghĩa của bản nguyên tác khi “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi”. Bác không gọi cô gái bên bếp lửa hồng ấy với hai từ cô em mang sắc thái bông đùa mà Bác trân trọng gọi người con gái ấy là thiếu nữ – gợi cảm xúc về sức trẻ, tuổi thanh xuân của cô. Mặt khác, thơ cổ cũng đã nhiều lần nhắc đến hình ảnh người thiếu nữ, nhưng là những thiếu nữ đài các nơi khuê phòng:
“Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
(Truyện Kiều)
Là những mĩ nhân, những quý tộc thượng lưu ở lầu son gác tía như trong thơ Lí Bạch:
“Mĩ nhân nhất tiếu khiên châu bạc
Giao chỉ hông lâu: thị thiếu gia”
(Mĩ nhân nở nụ cười vén bức rèm châu
Rồi chỉ về phía lầu hồng nói với ta: ấy là nhà của thiếp)
Còn người thiếu nữ trong “Chiều tối” xuất hiện cùng khung cảnh lao động bình dị nơi xóm làng mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mộc mạc mà gần gũi, đầy thương mến và chính cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u heo hút. Nó mang lại cho người đi đường chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người, tuy vất vả mà tự do. Trong câu thơ thứ ba ở bản dịch thơ, người dịch đã sơ ý đặt thêm chữ “tối” vào khiến giảm đi ít nhiều tính hàm súc, cô đọng. Xét về thời gian thì quả thực khi cô gái xay ngô thì trời đã tối nhưng cảm quan nghệ thuật của Bác thì rất dị ứng với bóng tối và hơn cả người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy được bước chuyển biến của thời gian ngay cả khi không có sự xuất hiện của chữ “tối” như Lê Trí Viễn đã từng bình luận: “Thời gian trôi dần dần theo cánh chim và làn mây, theo vòng xoay của cối ngô quay mãi quay mãi”. Ở hai câu thơ cuối này, thi nhân đã sử dụng thành công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn: “ma túc bao – bao túc ma” mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ việc dùng phép lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ “ma túc bao” ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào câu thơ thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt: “…ma bao túc…bao túc ma…ma bao túc” đưa ta với một buổi tối sum họp, ấm áp của một gia đình vùng sơn cước. Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có một vị trí đặc biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài. Nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét: “Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã…” Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Dường như trong thơ Bác luôn hướng về những thứ cao cả, đẹp đẽ: “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh), trong bài “Giải đi sớm” chữ “hồng” cũng đã từng xuất hiện:
“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”
Và ta luôn biết rằng, con đường cách mạng Việt Nam cũng đi từ trong đêm trường nô lệ để đến với con đường vinh quang cũng được biểu tượng qua ánh hồng:
“Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”
Như vậy, chữ “hồng” đã tạo lên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh. Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.
ững năm 40 của thế kỉ trước, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái. Đọc thơ Người ta khám phá được “từ màu sác cổ điển bỗng tỏa sáng tinh thần thời đại”, thấy được tư thế ung dung của người tù cách mạng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, tay mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn hoa nở cũng vô tình,
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể tù nhân nỗi bất bình.”
Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp. Hoa hồng tàn về thân xác cánh hoa có thể rơi, đài hoa có thể rụng nhưng hương hoa vẫn còn thơm mãi, hồn hoa biết bay đi để tìm người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ nỗi buồn, nỗi bất bình, tài năng của người nghệ sĩ có thể làm cho cái đẹp bất tử. Những vần thơ “Chiều tối” cũng vậy, nó vẫn vươn mình trong “vùng đất chết” để trở thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra khỏi nỗi khổ của người tù chuyển lao, thoát khỏi “cái dơ bẩn thấp hèn” và thay vào đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu con người đến tha thiết.