Sê-khốp đã từng nói “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” câu nói ấy làm ta bỗng nhớ đến một nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một bậc thầy về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng nhân đạo tiến bộ nhất trong xã hỗi phong kiến xưa,… con người vĩ đại ấy không ai khác ngoài đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Thơ của ông không chỉ hay mà còn sâu sắc đi vào trái tim người đọc để rồi những áng văn kì bút ấy sống mãi với thời gian mà chẳng bao giờ mất đi cái giá trị cao cả vốn có của nó vì vậy chẳng lẽ tự nhiên nhà thơ Tố Hữu sau này có viết:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn tu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.
Và giờ đây ta hãy cùng khám phá tài hoa của ông qua thi phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” mà trong đó chính là cái nhìn đồng cảm đến tinh tế về những con người tài hoa bạc mệnh, bị rẻ rúng trong xã hội phong kiến đang dần suy thoái cùng với đó là bức thông điệp gửi gắm đến muôn đời sau để rồi cho ta thấy cái nhân đạo thấm nhuần trong ông đẹp đẽ đến nhường nào!
Bài thơ được sáng tác vào một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc được lấy cảm hứng từ câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh sống vào thời Minh (từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVII). Nàng vốn là người tài sắc vẹn toàn nhưng rồi cái quy luật phũ phàng của trời đất đâu có tha riêng cho một ai: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”! Vẫn ở cái tuổi “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng nàng đã phải làm vợ lẽ khi mới là một thiếu nữ và cuộc đời nàng cũng chìm trong bóng tối từ đây…
Bị vợ cả ghen ghét, đày đoạ sống một mình tại đỉnh núi Côn Sơn không ai quan tâm kể cả bố mẹ hay từ người phu quân của nàng để rồi sự cô đơn, uất ức đã làm nàng chết dần, chết mòn theo thời gian và cũng để rồi người con gái ấy sống mãi ở tuổi xuân xanh… Sau khi mất đi, những bức hoạ và những bài thơ chứa đựng tâm tư của nàng cũng bị người vợ cả đốt sạch chỉ còn vương vấn, sót lại chút ít mà thôi. Và có lẽ nhan đề bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” cũng bắt đầu từ đây, phải chăng sau khi đọc tập thơ ấy đã khiến Nguyễn Du rung động rồi tạo thành nguồn cảm hứng tuôn trào trong ông?
Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” rằng:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm tháng:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khuê
Độc điếu song thiền nhất chỉ thư”.
(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Đó không chỉ là sự thay đổi nghiệt ngã của cảnh vật mà còn là của con người, từ một vườn hoa đẹp, lộng lẫy, sức sống căng tràn bao nhiêu thì nay lại trở nên tàn tạ, hoang phế, đìu hìu bấy nhiêu. Con người cũng vậy, thời gian cũng đã cướp đi biết bao nhiêu thứ từ con người, phải chăng đó là sự mỏng manh, ngắn ngửi của cái đẹp, là sự xuất chúng, hơn người của tài năng cũng tàn phai theo? Tiểu Thanh chẳng hề ngoại lệ, vâng, nàng có tài, có sắc ai mà chẳng biết, ai mà chẳng hay nhưng rồi: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” khiến cho bông hoa như nàng cũng phải lụi tàn trước ngọn lửa ghen tuông bùng cháy dữ dội như muốn thiêu đốt trọn cái tài, cái sắc của nàng. Làm vợ lẽ đã đành nhưng nàng chẳng có được sự tự do kể cả trong tình cảm của mình. Mọi thư từ, mọi việc làm, mọi cuộc gặp gỡ đều phải được người vợ cả đồng ý thì thư mới được gửi đi, việc mới được làm, chồng mới được gặp,… Dường như nàng có phu quân cũng như không vậy, ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Trinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.
Nguyễn du gợi nên nỗi xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm, đến khi bị tàn lụi, bị huỷ hoại thậm tệ là lìa xa trần thế mới thôi…
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Khi tới nơi đây, héo tàn, trơ trụi đã đành nay còn thêm cả ảm đạm, đìu hiu không một bóng người dù vậy Nguyễn Du vẫn trang trọng kính viếng bởi chăng trong họ là một sợi dây đồng cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của những con người đa tài nhưng số phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. “Độc điếu”- tâm thế cô đơn không chỉ riêng Tiểu Thanh mà còn là của Nguyễn Du. Nàng thì cô đơn giữa chốn không người, cảnh vất thê lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai hiểu được ông, hiểu được cái nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc mà con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Đọc di cảo của nàng lại càng khiến ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để thử thách đời người và có lẽ, chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm điều ấy:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thấm thoát cũng đã hơn ba trăm năm, những gì về người con gái ấy chỉ còn là một tập thơ với những trang giâý tàn mà Nguyễn Du đọc bên cửa sổ, dù có ít ỏi đi chăng nữa cũng đủ cho hậu thế xót xa mà nhỏ lệ, nhỏ lệ trước cách mà trò đời đối xử với nàng, cách mà nó làm nàng nhỏ bé, tàn tạ rồi ra đi mãi mãi đến đau lòng…
Cuộc đời nàng, số phận nàng luôn làm người đời suy tư, thổn thức ngay cả Nguyễn Du cũng vậy:
“Chi phấn hữu thân liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư”.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Son phấn làm gì có thần? Nhưng với Nguyễn Du thì có đấy. Văn chương thì làm gì có mệnh (vô mệnh) nhưng trong thơ của Nguyễn Du hoàn toàn ngược lại. Dường như ông đã khéo léo sử dụng hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ cho nhan sắc của Tiểu Thanh, nhan sắc ấy không chỉ đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi. Vẻ đẹp ấy có sức sống kì diệu ngay cả khi bị chôn vùi dưới đất xâu thì nó vẫn làm người đời nhớ đến mà tiếc thương và đây cũng là lần đầu tiên trong nền văn học trung đại Việt Nam, dưới sự kìm hãm của xã hội phong kiến có một nhà thơ dám miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, ngay cả khi Nguyễn Dữ miêu tả Vũ Nương cũng chỉ khiêm tốn hoạ nên vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Dường như đó là tiếng nói bất bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi thường và đây cũng là một bước đi mới trong nền văn học trung đại đương thời. Văn chương vốn “vô mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “luỵ” cái bạc mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,… và rồi bỗng chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để làm gì:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!
Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm nghe mà nhói lòng người:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong lưu kì oan ngã tự cư”.
(Nỗi hơn kim cổ trời không hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự” , xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,.. khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp, những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự căm phẫn. Tú bà thì:
“Thoắt trông nhợt nhạt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”.
Mã Giám Sinh thì:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.
Sở Khanh lại là kẻ:
“Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”.
Tại sao những kẻ như vậy lãi vẫn sống yên bình, ăn chơi trác táng mà khi ấy những người như Tiểu Thanh hay Thuý Kiều, Đạm tiên lại phải chịu biết bao sóng gió cuộc đời để rồi người thì ra đi mãi mãi, người thì chẳng bao giờ có được tình yêu của chính mình,… Bản thân Nguyễn Du tự cho mình là người có tài và cùng hội với những con người tài hoa bạc mệnh. Cái tài của ông dùng để cảm nhận cái đẹp, để thương con người, để thể hiện vẻ đẹp sâu sắc của tâm hồn chứa đựng cảm hứng nhân đạo khác hoàn toàn với Nguyễn Công Trứ mang nét cao ngạo, thể hiện cái tôi một cách ngông cuồng. Cái phong lưu của con người đã trở thành một cái oán, cái án ấy khiến người ta bị đày đoạ, bị hắt hủi, bị hành họ cho đến sức cùng lực kiệt thì mới thôi. Phải chăng khi đặt mình cùng vào chiếc thuyền khiến cho tiếng nói tri âm, tri kỉ lại càng vang thêm sâu sắc thêm nhường nào…
Đau đớn trước cái ngang trái của cuộc đời và giờ đây Nguyễn Du lại tự thương cho chính bản thân mình và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại- cảm hứng tự thương:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.
(Chẳng biết ba trăm năm nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Hai câu kết mở ra là cả một thế giới nội tâm của Nguyễn Du, “tam bách dư liên hậu”-con số 300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự tự thương. Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng 2 câu thơ thất niêm phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa.
Bài thơ đã ra đời cách đây mấy trăm năm nhưng giá trị nhân đạo mà nó để lại vẫn là mãi mãi. “Độc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài, có sắc nhưng bị xã hội phong kiến mục nát chà đạp. Khóc cho họ và rồi Nguyễn Du cũng khóc cho chính mình, cho một tài năng mà xã hội mục nát ấy chẳng thể nhận ra vì vậy Nguyễn Du cùng với “Độc Tiểu Thanh kí” luôn sống mãi trong lòng hậu thế với những giá trị nhân đạo cao quý, đúng như Lâm Ngũ Đường từng nói: “văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ”.