Câu nhận định của Chế Lan Viên như một lời khẳng định giá trị của kiệt tác “Truyện Kiều” và ngòi bút tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Trong phần hai “gia biến và lưu lạc” thuộc tác phẩm “Truyện Kiều”, độc giả không chỉ cảm nhận được nét tinh tế trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, nỗi lòng thương xót của Nguyễn Du trước số phận khổ đau của nhân vật mà còn thấy chân dung của một bậc anh hùng khí phách, tài hoa – Từ Hải. Khác với Kim Trọng – mối tình đầu của Thuý Kiều, Từ Hải mang nét anh hùng, ngạo nghễ, khí phách. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp người anh hùng Từ Hải và khát vọng tự do, công lý, chí khí, lý tưởng của chàng.
Một lần nữa số phận Kiều lại rơi vào vòng xoáy khổ đau khi lần thứ hai bị lừa vào lầu xanh. Cuộc đời bị đẩy vào ngõ tối, tưởng chừng như chẳng cách nào giải thoát thì Từ Hải xuất hiện như một ngọn đèn soi sáng số phận Kiều. Từ Hải cứu Thuý Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh, hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng gia đình hạnh phúc êm ấm lại chẳng níu chân được người anh hùng, Từ Hải muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Thuý Kiều ra đi vì chí lớn. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” từ câu 2213 đến câu 2230 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khi của Từ Hải.
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”
Mở đầu đoạn trích là niềm khát khao lý tưởng của người anh hùng. Câu thơ đầu khắc hoạ lên thời gian “nửa năm” êm đềm có lẽ là hiếm hoi trong cuộc đời Thuý Kiều chính là thời gian nàng và Từ Hải chung sống hạnh phúc. Hình ảnh ẩn dụ “Hương lửa đương nồng” thể hiện tình cảm vợ chồng đang lúc đằm thắm, mặn nồng. Dường như không chỉ cuộc sống của Kiều êm đềm mà chính cuộc sống của Từ Hải cũng hiện lên đầy viên mãn, vẹn trọn trong mái ấm gia đình. Từ Hải chọn ra đi trong hoàn cảnh ấy như một sự thử thách chí lớn. Nguyễn Du đã chọn từ Hán – Việt “Trượng phu” để gọi Từ Hải, không chỉ thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả khi dùng từ ngữ mang sắc thái trang trọng mà còn thể hiện Từ Hải là người nam nhi trượng phu có hoài bão. Từ “thoắt” bộc lộ suy nghĩ dứt khoát, quyết định nhanh chóng giống như tính cách người anh hùng.
Kết hợp với từ “thoắt” là động từ “động lòng” ý chỉ sự thôi thúc, giục giã bừng lên chí anh hùng, chí “bốn phương”. Nhân vật Từ Hải với chí lớn được đặt trong không gian “bốn phương”, “trời bể mênh mông”, rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ. Không gian rộng mở, kì vĩ vô cùng nhưng không hề lấn át đi hình ảnh người anh hùng mà còn như nâng hình ảnh Từ Hải lên sánh ngang với trời bể, thể hiện khát khao vùng vẫy, tung hoành khắp nơi như sức mạnh tự nhiên không gì có thể ngăn cản. Điểm nhìn “trông vời” cuả Từ Hải là nhìn xa nhưng chứa đựng những khát khao hoài bão lớn. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng ngạo nghễ, tự tin, phong trần. Không chỉ vậy hình ảnh “lên đường thẳng rong” thể hiện phong thái qủa quyết, đầy khí phách của người anh hùng.
Câu thơ cuối đã khắc hoạ một tư thế đẹp, hiên ngang cùng thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm dựng lên nghiệp lớn của người quân tử. Đây là tư thế của người anh hùng mang hùng tâm tráng trí. Qua bốn câu thơ đầu độc giả hình dung được vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải ở niềm khao khát lý tưởng lên đường thực hiện chí lớn. Khát vọng ấy dù được đặt trong hoàn cảnh thử thách nhưng Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, vì tình yêu mà quên đi lý tưởng cao cả. Không gian vũ trụ rộng lớn đã tô điểm cho tầm vóc người anh hùng với ý chí cao đẹp.
Vẻ đẹp chí khí, lý tưởng của người anh hùng càng được khắc họa rõ nét và nổi bật qua lời đối thoại giữa Thuý Kiều và Từ Hải trong mười hai câu thơ tiếp theo.
“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đát bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Lời Thuý Kiều được thể hiện qua duy nhất một cặp câu lục bát nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình cảm và sự khéo léo của nàng. Về lý nàng nói về bổn phận của người vợ trong đạo Nhọ quy định “tam tòng”, phận gái phải theo chồng. Về tình nàng “một lòng xin đi”, nàng lấy tình cảm thuỷ chung, son sắc, một lòng một dạ để theo chồng. Lời nói của Kiều vừa có lý vừa có tình qua đó ánh lên vẻ đẹp người phụ nữ truyền thống, vẻ đẹp nhân cách của người vợ sẵn sàng sẻ chia với chồng và sự tế nhị khéo léo trong giao tiếp của nàng. Trước lời nói thuận tình thuận lý của vợ nhưng Từ Hải vẫn từ chối.
Chàng coi Thuý Kiều không chỉ là vợ mà còn là “tâm phúc tương tri” ý chỉ tri kỉ, người thấy hiểu nhau sâu sắc. Câu hỏi tu từ “sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” như một lời trách cứ nhẹ nhàng rằng đã coi nhau là tri kỉ, thấu hiểu lòng dạ nhau sau còn giữ nếp nghĩ của nữ nhi bình thường. Lời trách cứ nhưng lại như lời khuyên nhủ Thuý Kiều vượt lên tình cảm thông thường để sánh với tư tưởng người anh hùng.
Sau lời từ chối là lời hứa hẹn được tô đậm bởi biện pháp phóng đại. Hình ảnh “mười vạn tinh binh”, “bóng tình” cùng âm thanh “tiếng chiêng” được phóng đại đã khắc hoạ khát vọng to lớn của Từ Hải về chiến thắng lừng lẫy, vang dội, một sự nghiệp ghi danh kì vĩ ở vùng trời tự do. Hình ảnh “mặt phi thường” hoán dụ chân dung Từ Hải – con người tài năng, xuất chúng với nội lực bên trong thôi thúc người anh hùng thực hiện giấc mộng công danh.
Mục đích đằng sau khát vọng về chiến thắng lừng lẫy không chỉ là hoài bão lập nghiệp lớn mà còn đề “rước nàng nghi gia”. Nghi gia là một nghi thức trang trọng khi người chồng đón vợ về nhà. Sự nghiệp công danh của Từ Hải cũng chỉ với mong ước cho Kiều một danh phận, một vị thế xứng đáng mà con người nàng đáng được hưởng. Qua đó mà ta thấy sự trân trọng của Từ Hải đối với vợ, dù xã hội có đưa đẩy nàng vào vũng bùn lầy hôi thối thì Từ Hải vẫn quyết đứng lên đòi lại cuộc sống êm đềm nàng đáng được hưởng. Chí khí anh hùng của Từ Hải gắn với tình yêu thương, tinh thần trách nghiệm của một người chồng.
Ước vọng lớn nhất của chàng là hoàn thành sự nghiệp cũng là thời khắc đưa Kiều về nhà trong chiến thắng vang dội khiến hạnh phúc thêm ý nghĩa hơn. Ta thấy trong con người Từ Hải toát ra cái phi thường kết hợp với cái bình thường. Bốn câu thơ cuối là lời đối thoại lại như lời độc thoại trần tình của Từ Hải. Nỗi khổ tâm của người anh hùng về hoàn cảnh thực tại “bốn bể không nhà”, “biết là đi đâu”.
Sẽ còn rất nhiều thử thách, khó khăn đang chờ Từ Hải nên chàng mong Kiều thấu hiểu cảm thông mà ở lại. Khép lại lời nói của Từ Hải là lời hẹn ước đối với Thuý Kiều một năm sau sẽ có chiến thắng, sự nghiệp lẫy lừng trong tay. Một lời hứa chắc nịch với thời gian cụ thể “một năm sau” như một sự khẳng định của Từ Hải – một con người tự tin vào chí hướng tài năng của bản thân. Mười hai câu thơ mở ra với chí khí khát vọng rộng lớn của Từ Hải và khép lại bằng tư tưởng nhân văn cao đẹp của chàng.
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm phơi.”
Hai câu thơ kết của đoạn trích thể hiện khát vọng, hành động lên đường của người anh hùng. Ba động từ mạnh “quyết lời”, “dứt áo”, “ra đi” cho độc giả thấy được hành động mạnh mẽ, quyết đoán, dứt khoát, không chút do dự, không bịn rịn. Tác giả sử dụng điển tích ví Từ hải như cánh chim bằng cưỡi gió mà bay lên bầu trời tự do. Điển tích được trích trong sách “Trang Tử” thiên “Tiêu dao du” là hình ảnh ẩn dụ kì vĩ hoá vẻ đẹp, tôn lên tầm vóc người anh hùng qua đó vẽ nên một tư thế lồng lộng giữa vũ trụ, thiên nhiên mang tinh thần lạc quan, lãng mạn, bay bổng. Vẻ đẹp của con người phi thường giữa không gian trải rộng cùng khát vọng xây dựng nghiệp lớn khát vọng tự do mang tầm vóc vũ trụ. Hai câu thơ cuối là cái nhìn của Nguyễn Du, tác giả đã khái quát hình ảnh anh hùng Từ Hải với khát vọng, lý tưởng cao đẹp và phi thường. Tác giả thể hiện sự khâm phục ngợi ca trước người anh hùng với chí khí cao cả.
Với cảm hứng sáng tạo, lãng mạn cùng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lý tưởng hoá đã vẽ nên một nhân vật Từ Hải có chí khí, lý tưởng anh hùng. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, Từ Hải mang khát vọng tự do trong cuộc sống, có tư tưởng nhân văn cao đẹp, thể hiện nét bình dị, bình thường trong con người phi thường, cao cả. Nhân vật Từ Hải đã vượt qua khỏi tư tưởng, lễ giáo phong kiến mà theo đuổi khát vọng, tự do. Bằng ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca, Nguyễn Du qua hình tượng Từ Hải gửi gắm ước mơ về công lý, tự do trong xã hội.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc hoạ cuộc chia tay của Thuý Kiều và Từ Hải nhưng không hề có sự bịn rịn, níu kéo mà là sự dứt khoát, mạnh mẽ qua đó nổi bật lên chí khí người anh hùng Từ Hải. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng ngợi ca trước lý tưởng, ước mơ tự do vùng vẫy ngang dọc của Từ Hải. Hình ảnh người anh hùng ấy không chỉ là ánh sáng của cuộc đời Kiều mà còn là ánh sáng trong xã hội phong kiến thối nát.