DECUONG.VN Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Tổng hợp những mở bài và kết bài môn Văn dễ đạt điểm cao đem đến cho các bạn học sinh lớp 12 có thêm nhiều tư liệu . Mở bài chung cho tất cả các tác phẩm lớp 12 Qua đó nhanh chóng biết cách viết đoạn mở bài và kết bài hay, để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Hãy cùng tôi tham khảo 13 mở bài mẫu cho tầng tác phẩm văn học 12.

Tổng hợp 13 mở bài mẫu  tất cả các tác phẩm văn học 12

1. Tây Tiến

Mở bài 1

Nhà văn Shelly đã từng nói rằng: “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử”. Thật vậy, có những bài ca không bao giờ quên trong lòng người đọc. Có những năm tháng chiến tranh đã in hằn lên những tác phẩm văn học chân chính, mà bụi thời gian có dày bao nhiêu vẫn không thể làm phai mờ.

Có lẽ vậy mà hình ảnh người lính trong chiến tranh đã ngã xuống vì đất nước vẫn vĩnh hằng trong trái tim của mỗi con người. Vì thế, hình ảnh ấy đi vào thơ Quang Dũng một cách nhẹ nhàng, sâu lắng. Ông là một nhà thơ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu mà lãng mạn. Tiêu biểu trong đó là bài thơ Tây Tiến.

Mở bài 2

“Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa

Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Chiến tranh qua đi đã để lại những hòa niệm về năm tháng không thể nào quên, những năm tháng mà bụi thời gian có dày đến đâu cũng không thể làm phai mờ. Đó là khi con người ta nhận ra chẳng còn gì hơn Tổ quốc, họ gác lại tất cả để đi theo tiếng gọi của đất nước thân yêu.

Những con người ấy đã đi qua thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ XX. Và đặc biệt, hình tượng ấy đã được nhà thơ Quang Dũng thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn những vẫn đậm chất hiện thực qâu bài thơ Tây tiến.

Vẻ đẹp của hình ảnh người lính đã được thi nhân khắc họa một cách độc đáo, mới lạ, oai hùng qua đoạn thơ sau: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Mở bài 3

Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”.

Vâng! Có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm ta những gì đẹp nhất để “suốt đời đi vẫn nhớ”.

Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua mọi băng hoại” của thời gian trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ những dư vang không thể nào quên. Một trong số bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến” của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Trong bài thơ có những vần thơ thật lắng đọng, đặc biệt là…

2. Việt Bắc

Mở bài 1

Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, Tố Hữu đã từng viết:

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”

Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, quê hương của những anh hùng, đây là mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đã đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xuyến xao. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ cho những ai đã từng đến rồi lại phải đi.

Chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấyđã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi nhà thơ Tố Hữu – Một người lính đã từng gắn bó với mảnh đất này viết nên tác phẩm “Việt Bắc” – tuyệt tác của đời mình.

Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Cũng như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc.

Mở bài 2

Tố Hữu đã từng tâm sự: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Thật vậy mỗi trang thơ của Tố Hữu là một bản tình ca về quê hương Tổ quốc và người dân đất Việt. Đặc biệt hơn, đó chính là vùng đất Việt Bắc, nơi “đậm đà tình son” đối với người chiến sĩ cách mạng- Tố Hữu.

Vùng đất ấy đi vào thơ ca của ông một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng biết bao. Thi phẩm được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân.

3. Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm

Mở bài 1

" Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

Câu thơ của Chế Lan Viên là sự đúc kết một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu của tâm hồn: Sự gắn bó với mỗi miền đất sẽ trở thành chính ta, một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và phải chăng vì lí do này mà những vần thơ viết về quê hương đất nước luôn lấy đi được những rung động thường trực?

Đi ra từ "Đất nước" cơn nắng cơn mưa đời mình, Nguyễn Khoa Điềm chắp bút nên trường ca "Mặt trường khát vọng" mà chương V "Đất nước" là tiêu biểu. Đoạn trích đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước trong ý nghĩa "Đất đã hóa tâm hồn" kì diệu và đẹp đẽ như thế!

Mở bài 2

Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ… Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam.

Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết về hào khí của cả một dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.

4. Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Mở bài 1

Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955).

Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!

Mở bài 2

Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ:

"Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể - người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ.

Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa."

Mở bài 3

Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy”. Thật vậy! Thơ ca luôn mang đến cho độc giả những đắm say, khi cảm xúc mà tác giả đặt vào trong thơ, khiến người ta thấy mình như ở trong đó.

Không chỉ thế, tác giả còn mang như nét đặc sắc của hiện thực, của thời đại vào trong thơ, tạo nên những giá trị trường tồn cùng thời gian. Tác phẩm … của … là một bài thơ như thế. Đặc biệt, khổ thơ … vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ này.

5. Sóng

Mở bài 1

Không biết tự bao giờ những con sóng ào ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn, vỗ về trái tim người nghệ sỹ.Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” của một mùa thu trong veo nơi đồng bằng Bắc Bộ, Huy Cận vẽ sóng “Tràng Giang” bằng bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời đại trong nỗi sầu vạn kỉ thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã nhuộm lên những con sóng bạc đầu màu yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hòn thơ tha thiết, nóng bỏng, đầy nữ tính.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, thủy chung trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong “Sóng” ngời sáng như “nốt nhạc xanh của thời kỳ lửa cháy”, như hòn ngọc quý của văn chương. “Sóng” để lại cho người đọc cảm nhận xanh non, tươi mới về tâm hồn rạo rực của người phụ nữ đang yêu, một trái tim nồng nà, đong đầy xúc cảm qua đoạn thơ:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Mở bài 2 (Đề: Cảm nhận vẻ đẹp tâp hồn người phụ nữ đang yêu qua bài thơ “sóng của thi sĩ Xuân Quỳnh.)

Không biết từ bao giờ những con sóng áo ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn chạm vào trái tim của người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào gợn sóng biếc hơi thở của một mùa thu trong veo, Huy Cận vẽ sóng “Tràng giang” bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên những con sóng bạc đầu tấm áo tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hồn thơ đắm say, cháy bỏng.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” ngời sáng như một hòn ngọc báu của Văn chương.

6. Đàn ghi ta của Lor-ca

Mở bài

Là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, Thanh Thảo luôn tìm tòi khám phá, sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghita của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.

Đồng cảm với Ph.G.Lor-ca, một trong những tài năng sáng chói của nền văn học hiện đại Tây Ban Nha thế kỉ XX, Thanh Thảo đã viết bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" để ca ngợi tài năng, nhân cách và bản lĩnh của Lor-ca và bày tỏ thái độ ngưỡng mộ, kính yêu của mình đối với người nghệ sĩ thiên tài đã hi sinh trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít để bảo vệ nền văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

7. Người lái đò sông Đà

Mở bài 1

Pauxtopki từng tâm niệm “nhà văn chân chính là người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp”. Mỗi một trang viết của người nghệ sĩ chân chính phải là từ hoa với sắc biếc mây trời, ngạt ngào hương hoa, lấp lánh tình người trên tài hoa trí tuệ của con người. Có một nhà văn như thế đã đi vào hồn văn Việt Nam với trang hoa nổi tiếng “Người lái đò sông Đà”.

Ấy là Nguyễn Tuân – người đã xây dựng thành công công trình mĩ thuật sông Đà và hình tượng con người lao động mới. Bước vào xứ sở sông Đà văn ông, người đọc choáng ngợp, hãi hùng bởi sự hung bạo của Đà giang và say đắm ngất ngây trước nét trữ tình của nó qua hai đoạn văn sau: “Hùng vĩ của sông Đà... khuỷnh sông dưới” và “Tôi có hay tạt ngang sông Đà... bản đồ lai chữ”.

Mở bài 2

Nguyễn Đình Thi từng phán về cụ Nguyễn Tuân là nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”, tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ thuật với hai chữ viết hoa”. Mỗi trang viết của văn nhân hiện lên là mỗi một tờ hoa với cái biến ảo kì diệu của ngôn từ. Nguyễn trong bất cứ đề tài nào đều lấy cái tài hoa làm phương diện khám phá con người và lấy tiêu chí thẩm mỹ đánh giá đối tượng.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách này của Nguyễn Tuân. Tùy bút ra đời trong chuyến đi gian khổ mà hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền Tây Bắc xa xôi rộng lớn. Ở đó, văn nhân đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn người lao động nơi đây.

8. Ai đã đặt tên cho dòng sông

Mở bài 1

Ai đó đã từng nói, tuổi thơ của mỗi người sẽ luôn có “một dòng sông để thương, để nhớ, đặc biệt là các nhà thơ, nhà văn. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Với sở trường về bút ký và đặc sắc trong sáng tác là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vẻ đẹp đa dạng về con sông Hương.

Mở bài 2

Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa, người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này.

Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông.

Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.

9. Vợ chồng A Phủ

Mở bài 1

“Vợ chồng A Phủ” để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mở bài 2

Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống, người được coi là “cánh chim báo bão của cách mạng Nga”, “nhà văn của những người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương quan đối lập trong câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn là quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được coi là nhỏ, là vặt vãnh.

10. Vợ nhặt

Mở bài 1

Kim Lân, đúng như nhà văn Nguyên Hồng nhận xét, là nhà văn một lòng đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn. Nhận xét này dường như rất đúng với Vợ nhặt. Tác phẩm được Kim Lân viết sau khi hòa bình lập lại, dựa vào trí nhớ của mình từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư đã bị mất bản thảo trước đó, in trong tập "Con chó xấu xí" (1962).

Mở bài 2

Nhắc đến cái chết là nhắc đến sự tan thương, nạn đói khiến người ta nghĩ ngay đến những hình ảnh bần cùng, khốn khổ, những con người vất vưởng sống nay chết mai, một khung cảnh ớn lạnh phảng phất mùi hôi thối của rác rưởi và cả những tiếng thở dài bất lực, thiếu sinh khí và mất sức sống.

Nhưng ở “Vợ Nhặt”, không chỉ đơn thuần là nạn đói mà Kim Lân đã thổi vào đấy hơi thở của sự sống, gieo vào tác phẩm giá trị nhân đạo sâu sắc. Giữa màn đêm tối đen của “Vợ Nhặt” vẫn nổi lên ánh sáng của tình người, bản chất tốt đẹp, niềm tin hy vọng vào cuộc sống và tương lai của những người nông dân nghèo.

11. Rừng xà nu

Mở bài 1

Tây Nguyên – mảnh đất của núi non hùng vĩ, mang sự bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vố số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành.

Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Mở bài 2

Trên những trang viết của mình, Nguyễn Trung Thành thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Rừng xà nu là một tác phẩm như thế.

12. Những đứa con trong gia đình

Được mệnh danh là “nhà văn của người dân Nam Bộ”, Nguyễn Thi luôn mang đến cho người đọc những trang viết giàu cảm xúc và mang đậm phẩm chất riêng của con người – mảnh đất anh hùng này. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm vô cùng gẫn gũi với độc giả. Trong những tác phẩm đặc sắc ấy nổi lên truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (1978).

Truyện viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi.

Công thức mở bài chúng cho tất cả các tác phẩm, mở bài chúng cho tất cả các tác phẩm lớp 12, kết bài chúng cho tất cả các tác phẩm văn học lớp 12, mở bài chúng cho văn xuôi, mở bài nâng cao các tác phẩm lớp 12, cách mở bài chung cho tất cả các tác phẩm lớp 9, cách mở bài chúng cho tất cả các tác phẩm lớp 11, mở bài chung cho nghị luận văn học lớp 12

13. Chiếc thuyền ngoài xa

Mở bài 1

Nikulin (Nga) từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong bầu không khí vô trùng". Thật vậy! Những nét đẹp đẽ, lương thiện trong phẩm chất nhân vật luôn là giá trị vĩnh hằng mà các tác giả xây dựng được trong tác phẩm của mình. Nhân vật … trong tác phẩm … là người đã được xây dựng lên bằng những điều đó.

Mở bài 2

Nghệ thuật và hiện thực luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, một tác phẩm chân chính muốn toả sáng phải có sự hòa quyện với vẻ đẹp của cuộc sống chân thực. Nhà văn Nam Cao từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Có lẽ, Nguyễn Minh Châu đã rất thấm nhuần tư tưởng đó khi xây dựng nên cốt truyện và nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

👉 Trên đây chúng tôi vừa giới thiệu tới bạn Cách Mở bài chung cho tất cả các tác phẩm văn học lớp 12 hay nhất, mong rằng qua đây bạn đọc có thể học tập môn Ngữ văn được tốt hơn.