DECUONG.VN Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được coi là “Áng thiên cổ kì bút”, là một trong 11 truyện viết về người phụ nữ. Một trong những hình tượng xuyên suốt của tác phẩm là người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp mà số phận nhỏ nhoi, bất hạnh. Tiêu biểu trong số đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nhân vật trung tâm của truyện là nàng Vũ Nương – Người phụ nữ có vẻ đẹp hoàn thiện mà phải chịu bao nỗi oan khiên, để lại nhiều cảm thương cho người đọc

Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.

Ngay từ lời mở đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã dành những lời trân trọng nhất để giới thiệu về Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết “tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Dù Nguyễn Dữ không miêu tả Vũ Nương bằng chi tiết cụ thể mà chỉ qua cụm từ “tư dung tốt đẹp” và hành động của Trương Sinh: “xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ” cũng đủ để cho người đọc hình dung về chân dung đẹp đẽ của Vũ Nương vừa đằm thắm, vừa mặn mà – nét đẹp đặc trưng của người phụ nữ thôn quê ngày xưa.

Nếu người con gái là một bông hoa, thì Vũ Nương là một bông hoa vừa hữu sắc vừa toả hương. Nhà văn Nguyễn Dữ đã đặt Vũ Nương vào các tình huống cụ thể để làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách, phẩm giá của nàng. Đó là người phụ nữ thuỷ chung son sắt, mang nặng tình nghĩa vợ chồng; một nàng dâu hiếu thảo; một người mẹ hết mực yêu thương con. Trong cuộc sống vợ chồng, Vũ Nương là người phụ nữ khéo léo. Nàng luôn lựa tính chồng, biết Trương Sinh đa nghi, hay ghen nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

Vũ Nương là người phụ nữ yêu chồng tha thiết. Khi Trương Sinh đi lính, nàng đã nói với chồng những lời đằm thắm, chân tình khiến ai cũng ứa hai hàng lệ. Nỗi mong muốn lớn nhất của nàng là “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng, khao khát hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng còn tưởng tượng ra những gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi biên ải trong nỗi khắc khoải, lo lắng, xót xa, nhớ nhung đầy cảm động: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng”. Qua lời nói thuỳ mị, dịu dàng thể hiện ngay từ hình thức câu văn biền ngẫu từng nhịp đối xứng khoan hoà như nhịp đập trái tim. Nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

Khi vắng chồngVũ Nương luôn là người phụ nữ thuỷ chung, giữ gìn tiết hạnh. Nguyễn Dữ miêu tả thật xúc động nỗi niềm thương chồng, nhớ chồng triền miên theo thời gian: “thoắt đã nửa năm mà nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Mùa đông ảm đạm, mây che kín núi, làm lòng nàng dằng dặc buồn thương. Ngay cả mùa xuân tươi vui, “bướm lượn đầy vườn” cũng không làm lòng nàng vui lên được. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương, đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"

(Chinh phụ ngâm khúc )

Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.

Hơn nữa, Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con. Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ. Với mẹ chồng, Vũ Nương xứng đáng là một cô con dâu hiếu thảo. Khi chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà cụ ốm nàng đã hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên lơn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi mẹ mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng, đánh giá cao phẩm hạnh của nàng: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ con dâu". Tất cả những việc làm đó của nàng đâu chỉ vì trách nhiệm mà xuất phát từ tình cảm thực sự nàng dành cho mẹ. Điều đó khiến người đọc không khỏi cảm động. Với bé Đản – đứa con ra đời khi cha nó đi chinh chiến nên nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc nuôi dạy con cái, nàng cố gắng bù đắp cho con tất cả. Chi tiết hằng đêm nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.

Không chỉ mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thồng, ở Vũ Nương còn có những vẻ đẹp khác đáng trân trọng. Khi Trương Sinh đi lính, bao gánh nặng dồn cả lên vai Vũ Nương, nàng vừa sinh con, chăm con, chờ chồng, nuôi mẹ, lại một mình lo ma chay khi mẹ chồng nằm xuống. Phải là người phụ nữ đảm đang, tháo vát và nghị lực lắm, Vũ Nương mới có thể xoay sở, sắp đặt mọi chuyện chu toàn đến thế. Điều đáng quý ở Vũ Nương là lối sống thuỷ chung, ân nghĩa. Ngay cả khi trở thành tiên nữ dưới thuỷ cung, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời và thương nhớ quê nhà. Vừa gặp Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình, nhà cửa cây cối thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp mắt, nàng đã ứa nước mắt xót thương rồi quả quyết “tôi tất phải tìm về có ngày”. Cũng vì trọng ân nghĩa, cả cái đức cưu mang của Linh Phi mà nàng “thề sống chết cũng không bỏ”, nguyện trọn đời, trọn kiếp ở bên Linh Phi

Vũ Nương còn có phẩm chất đáng quý nữa là trọng danh dự, sống có tự trọng. Vì coi trọng thanh danh mà nàng dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình và cũng vì trọng danh dự, muốn mình không phải mang vết nhơ nên trước khi trẫm mình xuống dòng sông, nàng đã tắm gội chay sạch và muốn nước sông rửa sạch nỗi oan khuất cho mình. Bên cạnh đó, Vũ Nương còn có trái tim nhân hậu, bao dung. Với Trương Sinh, người chồng đa nghi, tàn nhẫn đã ruồng rẫy, đã khiến nàng rơi vào bước đường cùng. Vũ Nương trước sau không một lời oán giận. Bị chồng đánh đuổi nàng chỉ một mực kêu oan: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....”. Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Sau này, khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông, nàng đã hiện lên trên mặt nước lần cuối để gặp chàng, nói lời đa tạ đã giải oan cho mình. Sự trở về dù trong giây lát cũng đủ cho thấy Vũ Nương có lòng độ lượng, vị tha biết mấy.

Trong tác phẩm, Vũ Nương hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp: một người vợ thuỷ chung, một người mẹ đảm đang, một con dâu hiếu thảo, con người trọng tình trọng nghĩa,...Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Có thể thấy, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, lấy người phụ nữ bình dân làm trung tâm của tác phẩm văn học. Nguyễn Dữ đã dùng những ngôn từ đẹp nhất để ngợi ca phẩm hạnh đáng quý nhất của họ. Đây là tư tưởng tiến bộ vượt bậc, đi trước thời đại của Nguyễn Dữ. Làm cho tác phẩm của ông mang giá trị nhân đạo, nhân văn cao cả.Vẻ đẹp của Vũ Nương đã làm đẹp thêm cho kho tàng văn học viết về người phụ nữ. Nguyễn Dữ không sử dụng bút pháp ước lệ, vẻ đẹp của Vũ Nương chân thực, giản dị, hết sức đời thường. Nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Na: “Vũ Nương không phải là một trang liệt nữ nhưng mang vẻ đẹp của người phụ nữ”. Vũ Nương là người phụ nữ có vẻ đẹp hoàn thiện cả về tư dung và phẩm chất.

Vũ Nương được xây dựng như một tấm gương mẫu mực, có thể coi là “khuôn vàng thước ngọc” về phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng hạnh phúc gia đình đã không mỉm cười với nàng, đã đẩy nàng vào vòng oan nghiệt khiến nàng rơi vào vòng bi kịch. Lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng nàng có “tên trong sổ lính đi vào loại đầu”. Vũ Nương chỉ được sống những phút giây hạnh phúc ngắn ngủi. Chiến tranh đã chia lìa đôi vợ chồng trẻ. Suốt ba năm, nàng chịu cảnh vò võ chờ chồng. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn

chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.

“Mặt biếng tô miệng càng biếng nói

Sớm lại chiều dòi dõi nương song

Nương song luống ngẩn ngơ lòng

Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai

(Chinh phụ ngâm khúc)

Ba năm đằng đẵng, một mình vất vả, cáng đáng công việc gia đình. Ca dao xưa có câu:

“Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”

Vũ Nương đã phải thay chồng đảm đương những công việc lớn, thay chồng chăm sóc mẹ lúc đau ốm, lại lo ma chay khi cụ bà qua đời. Nàng một mình xoay sở vừa sinh con, vừa chăm con mà không được chồng đỡ đần. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đoàn viên nhưng khi chồng trở về cũng là lúc Vũ Nương chịu bao oan khuất, bất hạnh

Vũ Nương còn là nạn nhân của sự hiểu lầm, nàng bị chồng nghi ngờ là thất tiết. Đây là nỗi oan khiên tày trời của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thói thường “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh hồ đồ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Ngay cả cái quyền tự bảo vệ mình nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm những đau đớn, tuyệt vọng của đời người phụ nữ không biết ngỏ cùng ai: “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…” . Hàng loạt các từ ngữ mang ý nghĩa chỉ sự chia lìa, tan vỡ được sử dụng: tạnh, tan, rơi, gẫy, rủ, tàn đã cho thấy hạnh phúc gia đình, thú vui “nghi gia nghi thất” mà cả đời nàng khao khát đã tan vỡ, ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hoá đá như trước kia cũng không thể trở lại được nữa. Tất cả đã tuột khỏi vòng tay nàng, khiến nàng rơi vào tuyệt vọng.

Bị chà đạp về thể xác, nhục mạ về tinh thần, không còn con đường nào khác, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho tấm lòng trong sạch của chính mình! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế??? Đây là hành động tiêu cực nhưng xuất phát từ ý thức trọng danh dự ở Vũ Nương. Đối với nàng, phẩm giá, danh dự còn cao hơn cả mạng sống. Lời than của nàng trước khi gieo mình xuống sông tự vẫn như lời nguyền cất lên từ nỗi lòng của kẻ bạc mệnh xấu số, thể hiện sâu sắc thân phận bi kịch không lối thoát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con ruồng rẫy, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám”. Lời than của Vũ Nương thật thấm thía làm sao. Nó diễn tả nỗi khát vọng đã thành tuyệt vọng của nàng và nước mắt đồng cảm của Nguyễn Dữ trước nỗi đau khổ, bất hạnh của con người. Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng lời than của nàng còn vọng đến chúng ta bởi niềm thương xót.

Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách biệt ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét, sự “phòng ngừa quá sức” của chồng. Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế!

Kết thúc tác phẩm có thể tạm coi là kết thúc có hậu khi Vũ Nương được cứu sống, lưu lại tại thuỷ cung. Điều đó thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân: “Ở hiền gặp lành”. Tuy nhiên, kết thúc này vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng sau lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa, bóng nàng long loáng rồi biến mất”. Như vậy, Vũ Nương không chết nhưng cũng không bao giờ được sống tại quê nhà, còn được hưởng hạnh phúc gia đình mà nàng luôn khao khát. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương gián tiếp thể hiện thái độ phủ định cõi trần thế, với xã hội phong kiến bất công đương thời, nơi mà người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.

Tác phẩm đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương – một điển hình sâu sắc cho số phận bi thương của người phụ nữ trong xa hội cũ. Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương bằng bút pháp lí tưởng hoá với vẻ đẹp hoàn thiện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng dùng lối hiện thực hoá để xây dựng nhân vật bởi Vũ Nương cũng là nhân chứng đau thương cho kiếp đời người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc khi nhà văn vừa ngợi ca nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa cất lên tiếng kêu bi thương cho số kiếp nhỏ nhoi của họ, vừa lên án, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát.

Nhân vật Vũ Nương là một trong những hình tượng người phụ nữ Việt Nam đẹp nhất trong văn học trung đại. Cuộc đời, số phận bi thảm của nàng để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm. Đúng như lời Nguyễn Du đã tổng kết:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Trong xa hội hiện đại, người phụ nữ đã dần khẳng định được vị trí của mình nhưng vẫn rất cần tiếng nói đấu tranh cho bình đẳng giới để cuộc đời người phụ nữ thực sự là những khúc ca vui.

Xem thêm

Decuong.vn

@if (!string.IsNullOrEmpty(Model.UrlShopee)) {
}