Một trong những “chiếc chìa khoá” quan trọng để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, chính là Lời đề từ. Chẳng hạn, trong thi phẩm nổi tiếng “Tràng giang”, Huy Cận có lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Hay câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm lời đề từ cho tác phẩm “Dấu chân người lính”. Trong bài thơ Ngày gặp gỡ, Hồ Dzếnh đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ:
“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò”.
Đề từ cho tập “Nhật kí trong tù” là bài thơ in ở bìa sách:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”.
Chức năng cơ bản của lời đề từ là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm, chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm văn học. Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm hứng mà còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả. Với người đọc, đề từ là điểm nhấn, tín hiệu nghệ thuật mang ý nghĩa định hướng trong quá trình tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Đề từ không phải là thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai trò như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác phẩm. Có thể nói, tiếp cận lời đề từ độc giả có thể phần nào nhận thấy được những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà nhà văn xây dựng. Vì vậy, bỏ sót hoặc khai thác sơ sài lời đề từ chúng ta sẽ làm rơi rụng không ít vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật.
Nhắc đến một trong những lời đề từ hay nhất của làng văn chương Việt Nam, ta không thể không kể đến nhà văn Nguyễn Tuân với lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Ông đã mượn câu của nhà thơ cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và hai câu thơ của tiền nhân về sông Đà:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”.
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc)
(Nguyễn Quang Bích).
Với lời đề từ đầu tiên, câu thơ của nhà thơ Ba Lan mang cấu trúc của một câu cảm thán nhằm bộc lộ niềm cảm xúc dâng trào, mãnh liệt trong lòng. Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bắc thiết tha với thiên nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu đắm say, tha thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.
Sau Cách mạng, cái đẹp trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là vẻ đẹp của con người, cuộc sống là cái đẹp của hiện tại, của hiện thực lao động và chiến đấu xây dựng cuộc sống mới. Vẻ đẹp của con người không phải lạc lõng, bơ vơ mà là những con người lao động bình dị, điển hình là người lái đò Sông Đà. Trong thiên tùy bút, Nguyễn Tuân dồn nhiều tâm huyết xây dựng nên hình tượng người lái đò – người lao động đầy trí dũng và cũng là nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.
Cuộc đời của người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoang vu là thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của bản hùng ca ấy, Nguyễn đã cất lên một chân lý: Con người bất kể nơi đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình đều đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh.
Với lời đề từ thứ hai: hai câu thơ chữ Hán đã bộc lộ được nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng bắc – đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời kiếm tìm cái Đẹp và sự độc đáo.
Từ đặc điểm riêng của Sông Đà: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, Nguyễn Tuân đã tái hiện hình tượng Sông Đà như một sinh thể đa dạng, phức tạp, độc đáo về tính cách. Nhưng lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc này còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, riêng biệt, không lặp lại cũng như dòng chảy ngược hướng Sông Đà khác với tất cả các dòng sông khác. Vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, thơ mộng của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện chân thật, tỉ mỉ, khách quan.
Với hai lời đề từ, Nguyễn Tuân cho thấy đồng thời cả cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Hình tượng Sông Đà đã đưa nhà văn trở thành họa sĩ của những vẻ đẹp tinh khôi tuyệt đỉnh của tạo hóa.