DECUONG.VN Chia Sẻ Cương Ôn Luyện Thi Các Lớp

“Bếp lửa” là sáng tác đầu tay của Bằng Việt khi nhà thơ đang là du học sinh ngành Luật tại Liên Xô. Xa quê hương, xa làng xóm, xa gia đình, Bằng Việt chưa lúc nào quên được những kỷ niệm của một thời thơ ấu bên người bà mà hình ảnh bếp lửa đã để lại trong tâm thức người thanh niên hai mươi tuổi một ấn tượng quá sâu đậm. Bởi lẽ nó tượng trưng cho tình bà cháu thiêng liêng, cao quý mà nhà thơ luôn ấp ủ trong suốt quãng thời gian xa nhà. Có chăng thứ tình cảm giản dị ấy đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt, thôi thúc Bằng Việt cầm bút viết nên những câu thơ thật cảm động về tình bà cháu với những kỷ niệm tuổi thơ cháy bập bùng bên bếp lửa. Có lẽ vì vậy mà khi nói về “Bếp lửa”, có nhận định cho rằng: “

Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt đầu nguồn từ lòng yêu quý ông bà cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.”

Nhận xét trên quả thật xác đáng bởi nó đã khái quát đầy đủ chủ đề tư tưởng mà Bằng Việt muốn thể hiện trong “Bếp lửa”. Những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng. Sức tỏa sáng ấy chính là ánh hào quang của những điều cao đẹp, những điều thiêng liêng trân quý nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Và ánh sáng ấy vẫn mãi rạng soi, vẫn mãi như vì sao lấp lánh trong tâm hồn chúng ta từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành, thậm chí đến khi đã đi trọn cả cuộc đời, ánh sáng ấy vẫn trường tồn, vĩnh hằng – một thứ ánh sáng bất diệt. Nó như một bàn tay, một bàn tay như của cha, của mẹ, một bàn tay kỳ diệu dịu dàng nâng bước ta đi trong thầm lặng. Suốt cuộc đời, từ lúc tóc còn xanh cho đến khi bạc trắng, ánh sáng ấy vẫn mãi dõi theo, cho ta chỗ dựa, cho ta niềm tin, cho ta mơ ước.

Đó là một sức mạnh, một sức mạnh tinh thần cho ta liều thuốc là những hoài niệm xa xăm để thức tỉnh ta, kéo ta ra khỏi cuộc sống vồn vã, xô bồ của thực tại, để ta quay lại, ta nhìn nhận, ta chiêm nghiệm. Tuổi thơ trôi qua sao nhanh quá, tựa như chỉ hờ hững trong phút chốc đã thấy nó trôi qua tự lúc nào. Tuổi thơ để lại cho ta món quà là những kỷ niệm, mỗi một chiếc hộp là một niềm tiếc nuối.

Hồi ức tuổi thơ như một trang giấy trắng mà nay đã đong đầy bởi ngàn nỗi nhớ mong. Tựa dòng sông quê hương cứ cuồn cuộn chảy rồi để lại một lớp phù sa ấn tượng trong tâm khảm. Lớp phù sa ấy được tạo nên từ lòng yêu những kỷ niệm thân thuộc của tuổi thơ, yêu quý ông bà, cha mẹ,… tất cả những nỗi nhớ niềm thương ấy đã được kết tinh lại thành một thứ tình cảm tươi mới hơn, cao cả hơn, sâu sắc hơn: Tình yêu đất nước. Điều này thật đúng đối với Bằng Việt, và hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ cùng tên chính là minh chứng rõ nét nhất cho nhận định này.

Từ những dòng thơ đầu tiên, tác giả đã khơi dậy cảm xúc trôi theo dòng ký ức:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa hiện lên thật giản dị mà chân thực, ấm áp biết bao nhiêu. Trong tâm thức người đọc cũng như chính nhà thơ, hình ảnh bếp lửa như vừa thực, vừa mơ qua các từ ngữ “chờn vờn”, “ấp iu”. “Chờn vờn” là từ láy thích hợp nhất để đặc tả sự thoáng ẩn hiện, trở đi trở lại của bếp lửa.

Từ bếp lửa ngoài đời thường đã đi vào trong trang thơ một cách rất đỗi tự nhiên. “Ấp iu” gợi lại hình ảnh người bà tần tảo đang nâng niu, dùng tay mình ủ ấm ngọn lửa để lan tỏa hơi ấm đến cháu. Hình ảnh bà lồng trong hình ảnh bếp lửa, cũng có khi tách riêng ra đứng song song nhưng chung quy lại cũng chỉ là một. Bếp lửa huyền ảo còn bà thì lại chân thật biết bao. Bà không quản nhọc nhằn, chịu đựng nắng mưa, đôi vai gầy của bà gánh vác cả trách nhiệm làm cha và làm mẹ. Biết bao gian khó, bà vẫn sớm hôm tần tảo nuôi cháu nên người. Niềm biết ơn sâu sắc ấy cũng từng được Nguyễn Duy thể hiện trong “Đò lèn”:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Biết bao năm qua, dẫu nắng gắt hay mưa giông, ngay cả trong những đêm đại hàn lạnh lẽo, bà vẫn vất vả ngược xuôi lo cho cháu từng miếng cơm manh áo, lo cho cháu được ăn học đủ đầy. Cả đời bà chỉ mong con cháu được sống trong đủ đầy, hạnh phúc mà luôn nhận vất vả về phần mình. Đối với Bằng Việt, bếp lửa khiến cháu nhớ về bà với tất cả những gì trân trọng nhất, thân thương nhất bằng lòng thành kính, biết ơn sâu nặng. Thứ tình cảm ấy đã hóa thành ngọn lửa sáng cháy lên soi tỏ một vùng trời tuổi thơ:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nhớ lại đến giờ sống mũi còn cay…”

Cháu sống với bà từ thuở nhỏ nên “đã quen mùi khói”, đã quen với bóng lưng còng thân thuộc của bà, đã quen với hình ảnh bếp lửa bập bùng bà nhóm lên mỗi sớm ban mai. Phải chăng sự thân quen ấy cũng chính là tình cảm gần gũi, thiêng liêng cháu dành cho bà, đến nỗi nó đã hóa thân cho một thứ gì cao quý nhất trong lòng cháu, thứ kho báu vô giá mang tên: kỷ niệm. Kỷ niệm về một thời gian khổ sống cùng bà chợt hiện lên trong tâm thức cháu đầy chân thật. Cái năm “đói mòn đói mỏi” ấy chính là nạn đói khủng khiếp năm 1945, một thảm họa đã cướp đi mạng sống của hàng triệu người dân Việt Nam lúc bấy giờ, đẩy nhân dân ta xuống tận cùng của vực thẳm tăm tối. Như Chế Lan Viên đã có lần chua chát thốt lên rằng:

“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!”

Giữa hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, lại lóe lên một tia sáng nhỏ, một tia sáng dẫu chỉ le lói trong đêm đen mù mịt – ánh sáng của bếp lửa, của tình bà cháu thiêng liêng, cao quý. Thứ ánh sáng ấy đã trỗi dậy mạnh mẽ, thắp sáng tâm hồn của cháu. Những kỷ niệm về một thời “khói hun nhèm mắt cháu” luôn được cất sâu vào nơi quan trọng nhất trong trái tim, nơi mà đối với mỗi người, nó chỉ dành riêng cho những gì cao quý nhất, để mà “nhớ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Tuổi thơ cháu gắn liền với bếp lửa, với năm tháng gian khó mà ấm áp bên bà, với làn khói cay cay, với đốm lửa nồng đượm. Cuộc sống cơ hàn, lam lũ là vậy nhưng đó mới chính là tuổi thơ của cháu, một vùng trời đầy ắp những kỷ niệm khó phai mà chẳng mấy ai dễ dàng có được.

Tuổi thơ – mỗi khi ai nghe thấy thế cũng tưởng rằng xa xôi lắm. Sự xa xôi ấy dường như đã trở thành xa xỉ, đến nỗi có dùng vàng bạc cũng chẳng thể mua được. Sự cố gắng chạm vào nhưng không thể đã hoá thành nỗi nhớ khắc khoải, da diết nơi ngực trái khi con người ta không còn thơ bé nữa. Tuổi thơ như một mảnh ghép quan trọng trong bức tranh của quá khứ gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi con người. Nó là những gì thần tiên nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chúng ta.

Ta đã từng bắt gặp một quê hương đong đầy những kỷ niệm với “cô bé nhà bên” của Giang Nam:

“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

Ai bảo chăn trâu là khổ

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Có những ngày trốn học

Đuổi bướm cạnh cầu ao

Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích”

“Quê hương” của Giang Nam – bài thơ quen thuộc trong trái tim mỗi người yêu thơ. Bài thơ dung dị, hồn nhiên như một nét cười buồn giữa cuộc chiến tranh tàn khốc. Quê hương là gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ, quê hương là dòng sữa mẹ nuôi ta khôn lớn, là chua chua quả khế vườn nhà, là hoa cau trắng muốt ngoài thềm, là bướm vàng rợn ngợp và tiếng sáo vi vu trong thơ của Đỗ Trung Quân:

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay”

Bài thơ gợi về dồn dập những kỷ niệm làm lòng ta xao xuyến không thôi. Lời thơ mộc mạc nhưng thi vị, hình ảnh thơ giản dị nhưng chứa đầy sức gợi. Tất cả đều là chất thơ toát lên từ một mảnh tâm hồn luôn nhớ về cội nguồn, từ nỗi nhớ thương quá khứ, từ sự nuối tiếc tuổi thơ ta sao trôi qua vội vàng quá đỗi. Khác với Đỗ Trung Quân hay Giang Nam, ta lại thấy ở Nguyễn Duy nhiều nét tương đồng với Bằng Việt, đó là tuổi thơ đều gắn bó bên người bà:

“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá

níu váy bà đi chợ Bình Lâm

bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”

Những hồi ức thuở nhỏ hiện lên sao giản dị, đơn sơ mà đầy xúc cảm. Đoạn thơ như một thước phim quay chậm chân thật đến từng giác quan, để rồi biết bao kỷ niệm bỗng nhiên ùa về lập đầy tâm trí.

Xuôi theo dòng chảy của thời gian, “Bếp lửa” của Bằng Việt thực sự là một mảnh hồn trong trẻo nhà thơ có được, những kỷ niệm được khơi lại trong tâm tưởng bởi ngọn lửa nồng đượm hiện lên thật đơn sơ mộc mạc mà lại quá đỗi lớn lao:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

Cuộc sống đói khổ, lam lũ luôn kề cận tuổi thơ của cháu đã khiến cháu đã khiến cháu trưởng thành hơn trong cách làm và sâu sắc hơn trong cách nghĩ. u cũng bởi thời gian “tám năm ròng” dài tưởng như vô tận. Cháu nhớ về những ngày còn sống bên bà, được bà kể cho nghe chuyện ở Huế trong tiếng tu hú tha thiết vọng về từ những cánh đồng xa:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà?

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”

Tiếng tu hú thường gợi về cảm giác đơn độc giữa khoảng không gian vắng vẻ, rợn ngợp lại im ắng, hoang sơ đến lạ thường. Từ những cánh đồng rộng lớn xa xăm, tiếng tu hú vọng về sao khắc khoải, sao da diết nhớ mong khi “mẹ cùng cha công tác bận không về”, một mình bà đảm đương trọng trách làm cha, làm mẹ, làm thầy mà “bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”, “chăm cháu học”. Cháu cùng bà sống trong những ngày tháng cơ cực mà vẫn ấm áp tình người, bà và cháu nương tựa vào nhau, tình bà cháu càng thêm bền chặt. Tình cảm “thương bà” của cháu chỉ được bộc lộ qua suy nghĩ chứ chẳng thể nói thành lời.

u cũng bởi tình cảm ấy quá đỗi lớn lao, đến nỗi không ngôn từ nào có thể diễn tả được. Nó được ấp ủ, nhen nhóm trong lòng cháu thật cảm động và thiêng liêng biết bao! Kí ức của một thời ấu thơ gắn liền với những năm tháng chiến tranh tàn khốc bên cạnh bà nay đã hóa thành một mảng rêu xanh bám sâu vào tiềm thức của cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

Túp lều tranh ấy là mái ấm gia đình cháu sống cùng bà, tuy thiếu thốn vật chất nhưng luôn đủ đầy về tinh thần mà nay lại bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi. Cùng là ngọn lửa, nhưng ngọn lửa của bà nhen dậy trong cháu tình người ấm áp nồng hậu, tình làng nghĩa xóm gắn bó keo sơn của một dân tộc luôn lấy câu “Thương người như thể thương thân” để răn mình. Nỗi vất vả, lầm than ấy đã trở thành nỗi đau trong lòng người cháu, nỗi thương bà, thương đất nước mình gian lao trong kiếp nô lệ. Nhưng lạ thay, trước cái cảnh ngặt nghèo tăm tối ấy, bà vẫn vững vàng, vẫn kiên cường để làm gương cho cháu:

“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”

Khổ thơ là hình ảnh về cuộc sống của bà và cháu trong những năm giặc giã, khi cha mẹ đi công tác ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật chân thực và cảm động biết mấy, những gian khổ, những nhớ nhung đều phải giấu kín để người ở xa được yên lòng. Tấm lòng người bà không quản nhọc nhằn, tảo tần sớm hôm, chu đáo, ân cần biết bao nhiêu:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”

Nếu từ đây trở lên là hình ảnh bếp lửa thì những câu thơ tiếp theo tác giả lại chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực cụ thể nay đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trưng khái quát. Bếp lửa với những kỷ niệm ấm áp, những tâm tình bình lặng của tình bà cháu, của tình cảm gia đình đã hóa thành ngọn lửa của niềm tin, của sức sống con người. Bà nhóm bếp lên mỗi sớm mỗi chiều, nhen lên ngọn lửa rực rỡ lòng yêu thương. Dẫu biết bao mưa nắng, ngọn lửa ấy vẫn cứ bập bùng, vẫn cháy lên trong lòng bà một niềm tin bất diệt về một tương lai tươi sáng của cháu, về cách mạng toàn thắng của dân tộc Việt nam bất khuất anh hùng. Ngọn lửa vĩ đại ấy cứ cháy sáng, thắp sáng tâm hồn, đôi mắt, trái tim của cháu cho đến mãi sau này:

“Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Mỗi một ngọn lửa là biết bao ký ức tuổi thơ sống dậy với củ khoai, củ sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo sẻ chia với nhau lúc đói nghèo… từng kỷ niệm được gợi về dồn dập qua ngọn lửa của bà. Những ký ức của Bằng Việt về một thời thơ ấu sao quá đỗi bình dị, giản đơn mà sâu nặng nghĩa tình. Nó như một thứ ánh sáng diệu kỳ, là hành trang vững chắc chúng ta cho đến hết cuộc đời. Ngọn lửa nhân ái của lòng bà nhóm lên trong cháu tình yêu thương, sự sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau. Đặc biệt, điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần ở đầu mỗi câu thơ như muốn nhấn mạnh giá trị cốt lõi lớn lao mà bếp lửa đem lại. Ta bỗng bắt gặp đâu đây hình ảnh một người lính dừng chân bên xóm nhỏ, nhờ một âm thanh thân thuộc mà được sống dậy một lần tuổi thơ:

“Trên đường hành quân xa

Dừng chân bên xóm nhỏ

Tiếng gà ai nhảy ổ

Cục… cục tác cục ta

Nghe xao động nắng trưa

Nghe bàn chân đỡ mỏi

Nghe gợi về tuổi thơ”

Trong ký ức của anh bộ đội, anh yêu từ tiếng gà nhảy ổ đến ổ rơm với những quả trứng hồng, yêu cả tiếng bà mắng và những hành động trẻ thơ non dại. Giữa những sự vật thân thuộc ấy, hiện lên trong anh hình ảnh người bà chịu thương chịu khó nuôi cháu lớn khôn, tần tảo, chắt chiu để cuộc sống cháu được đủ đầy. Tất cả, tất cả những kỷ niệm tuổi thơ đã đi vào tâm thức cháu như một điều gì thiêng liêng, cao quý, trở thành lý tưởng sống và chiến đấu cao đẹp của cháu:

“Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu Tổ quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

Ổ trứng hồng tuổi thơ.”

Hôm nay cháu cầm súng, hôm nay cháu hy sinh nơi chiến trường nhưng cháu luôn mạnh mẽ kiên cường vì trong lòng cháu có bà, bên cạnh tình yêu đất nước là tình yêu gia đình, yêu xóm làng thân thuộc. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua đã viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.”

Giống Xuân Quỳnh, đối với Bằng Việt, tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu bếp lửa, yêu người bà tần tảo sớm hôm nuôi cháu nên người. Từ những dòng thơ đầu khơi gợi cảm xúc, cảm hứng thơ trôi theo dòng ký ức, những kỷ niệm về một thời vất vả lam lũ bên bà, về những năm tháng kháng chiến gian lao mà oanh liệt của dân tộc ta. Giọng thơ như trầm xuống theo dòng cảm xúc, để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người bà – chỗ dựa tinh thần cho cháu trong suốt quãng đời thơ ấu và có lẽ cũng đến tận cuối đời. Cùng với xúc cảm ấy là hình ảnh bếp lửa, vừa là đối tượng để gợi nhớ, vừa là biểu tượng của tình cảm gia đình. Tình yêu gia đình hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước để rồi cuối cùng kết tinh lại trong câu thốt lên đầy nghẹn ngào:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Một lời thốt lên tưởng như mang theo cả những tâm tình thuở nhỏ từ tận đáy lòng. Bao nhiêu niềm yêu nỗi nhớ như vỡ oà trong dòng cảm xúc. Một niềm biết ơn trân trọng, sâu sắc khi bất chợt nhận ra trong vật gần gũi đơn sơ ấy lại ẩn chứa một điều kỳ diệu. Ngọn lửa ấy, bếp lửa bà nhen đã sưởi ấm tâm hồn cháu từ thuở bé đã đi theo cháu trong mỗi bước chân trên con đường trưởng thành:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ bà, nỗi nhớ quê hương khôn nguôi da diết. Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều kỳ diệu, mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa vào quá vãng, cháu giờ đây đã trưởng thành, cất cánh bay cao, bay xa trên bầu trời cao rộng. Dù vậy nhưng trong tâm thức cháu vẫn luôn hướng về hình ảnh bếp lửa bà nhen mỗi sớm ban mai nơi làng quê nghèo khó nhưng chất chứa biết bao kỷ niệm tuổi thơ. Ở đây, bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, yêu làng xóm, ngọn lửa của niềm tin bất diệt, của sức sống con người.

Câu hỏi tu từ dường như là hoài niệm. Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong niềm nhớ thương quá khứ. Ta lại bất giác nhớ đến những vần thơ xao xác buồn của Lưu Trọng Lư:

“Mỗi lần nắng mới hắt bên sông

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không.”

Với Bằng Việt cũng thế, cũng thơ hoài niệm, cũng đượm buồn, cũng man mác. Đặc biệt câu hỏi tu từ cuối bài như càng khắc khoải da diết, càng day dứt khôn nguôi. Nếu bếp lửa là nơi ấm áp nhất trong ngôi nhà bình yên thì trong tâm hồn bà cũng luôn có một ngọn lửa nồng đượm của tình yêu thương không bao giờ vơi cạn. Và dù người cháu có trưởng thành, có biết thêm “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” thì hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm hồn người cháu vẫn luôn là ánh lửa bập bùng của bà nơi quê hương yêu dấu.

Cháu chẳng thể quên được vì đó là cội nguồn, là nơi cháu sinh ra, là nơi thổi vào tâm hồn cháu sự sống. “Ngọn khói trăm tàu” cũng chẳng bằng ngọn khói đã hun nhèm mắt cháu, ánh “lửa trăm nhà” cũng không thể sánh với ngọn lửa bà thắp lên trong quãng đời ấu thơ của cháu. Bởi bên bếp lửa ấy có bà, có kỉ niệm về một thời tuổi thơ gian khổ mà vẫn ấm tình người, tất cả trở thành một mảnh ghép quan trọng trong cuộc đời của cháu, trở thành một tín ngưỡng cao quý cháu luôn nâng niu, trân trọng.

Bài thơ là một bức tâm thư đầy ý nghĩa sâu sắc, từng con chữ như thay lời cháu nói, thể hiện tấm lòng yêu thương, biết ơn bà sâu nặng và trên tất cả còn là trái tim luôn hướng về quê hương, về nguồn cội của người con xa xứ. Thật đúng như nhận định: “Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt đầu nguồn từ lòng yêu quý ông bà cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.”

Decuong.vn

@if (!string.IsNullOrEmpty(Model.UrlShopee)) {
}